Sự xuất hiện của nhà báo Nguyễn Ái Quốc
Ngày 18/6/1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” (ký tên là Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị Versailles đòi chính phủ Pháp ân xá các tù chính trị, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trong bản Yêu sách, Người đã thay mặt tòa thể nhân dân Việt Nam yêu cầu chính quyền thực dân Pháp phải cho “tự do báo chí và tự do ngôn luận”.
Bản Yêu sách gây tiếng vang lớn tại Pháp và được Báo “Dân Chúng” (Le Populaire) và Báo “Nhân Đạo” (L' Humanité) đăng tải. Bản yêu sách còn được đăng trên “Nghị Xã Báo” (Yiche Pao) xuất bản ở Thiên Tân (Trung Quốc).
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến cám ơn Báo “Dân Chúng” thì Người được ông Jean Longuet (chủ bút tờ báo) và cháu ngoại của Các Mác mời cộng tác các tin tức thuộc địa cho báo. Người còn được ông Marcel Cachin, chủ bút Báo “Nhân Đạo”, mời cộng tác. Ngoài ra, Người cũng được ông Gaston Monmousseau, chủ bút Báo “Đời Sống Thợ Thuyền” (La Vie Ouvrière) chỉ dẫn cho cách viết báo.
Để viết báo bằng tiếng Pháp quả là khó khăn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó. Ban đầu, Người tập viết những mẫu tin ngắn và sau đó Người tập viết thành bài dài. Sau mỗi bài báo, Người đều chép thành hai bản. Một bản Người lưu giữ lại, còn bản kia gửi cho toà soạn. Người nói với mọi người trong tòa soạn rằng: “Tôi rất sung sướng nếu bài viết này của tôi được đăng, nhưng dù thế nào cũng xin các đồng chí sửa lỗi tiếng Pháp cho tôi”.
Sau mỗi lần bài viết được đăng báo, Người vui mừng khôn xiết. Bên cạnh đó, Người lại cẩn thận xem lại từng câu từng chữ, xem bài viết của mình đúng sai chỗ nào, toà soạn báo đã sửa lại cho mình như thế nào. Theo chỉ dẫn của những chủ bút, Người tập viết đi viết lại, khi thì viết diễn giải ra cho dài, khi lại viết ngắn lại cho súc tích.
Những bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo cánh tả ở Pháp là các báo ngân quỹ ít ỏi nên hầu như không có nhuận bút nhưng lại mang ý nghĩa tinh thần rất lớn. Vì vậy, ban ngày Người đi làm, tối tham gia mít tinh, biểu tình, vận động cách mạng, đêm lại vẫn ngồi cặm cụi viết báo.
Ngày 2/8/1919, bài “Vấn đề bản xứ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên Báo “Nhân Đạo” (L’ Humanité) cũng nhắc lại những nội dung chính Bản yêu sách và khẳng định nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là chính đáng. Trong bài báo nay, Người viết: “Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca… Còn công lý, đối với người bản xứ, nó tồn tại như thế này đây: Người Âu nào đã giết chết, tàn sát hoặc cưỡng dâm người bản xứ, thì trong trường hợp vụ án không thể được ỉm hoàn toàn, anh ta chắc mẩm rằng mình được toà án tha bổng, mình ra toà chẳng qua là chuyện hình thức”.
Đặc biệt, bút danh “Nguyễn Ái Quốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng để viết báo. Theo thống kê bước đầu có 86 bài viết Người sử dụng bút danh này đăng trên nhiều báo khác nhau như Báo “Nhân Đạo” (L’Humanité), Báo “Dân Chúng” (Le Populaire), Báo “Đời Sống Thợ Thuyền” (La Vie Ouvrière), Báo “Người Tự Do” (Le Libertaire), Báo “Của Dân” (Le Journal du Peuple), Báo “Người Cùng Khổ” (Le Paria), Báo “Việt Nam Hồn” (L'Ame Annamite), Báo “Thư Tín Quốc Tế” (Inprekorr), Báo “Quốc Tế Nông Dân”, Báo “Tiếng Còi” (Gudok), Báo “Sự Thật” (Pravda), Báo “Công Nhân Bacu”, Tạp chí “Nữ Công Nhân” (Rabotnitsa), Tạp chí “Cộng Sản” (La Revue Communiste), Tạp chí “Đỏ”…
Tố cáo tội ác của thực dân và tuyên truyền chủ nghĩa xã hội
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Lúc đó, Người và các lãnh đạo Hội chủ trương phải có một tờ báo của Hội. Khi Báo “Người Cùng Khổ” (Le Paria) ra đời ngày 1/4/1922, Người vừa là chủ nhiệm đồng thời là chủ bút, hoạ sĩ biếm họa, thợ rửa ảnh, thủ quỹ, phát hành, bán báo... Báo “Người Cùng Khổ” (Le Paria) được in 3 thứ tiếng: Pháp, Ả rập và Trung Quốc với tuyên bố rằng báo này “là vũ khí để chiến đấu, sứ mạng của nó đã rõ ràng: Giải phóng con người”.
Trong bài viết “Đông Dương” đăng trên Tạp chí “Cộng Sản” (La Revue Communiste), số 14, tháng 4/1921, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về tình hình cách mạng ở Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia): “Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện nay đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói rằng Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta thường vẫn nghĩ như thế, thì lại càng sai hơn nữa”. Người Đông Dương, mặc dù bị thực dân Pháp ra sức đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác nhưng Người vẫn khẳng định: “Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương”. Kết thúc bài báo, Người nêu rõ: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.
Trong bài viết “Đông Dương và Thái Bình Dương” đăng trên Tập san “Thư Tín Quốc Tế” (Inprekorr) của Quốc tế Cộng sản ra ngày 19/3/1924, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ngày nay chủ nghĩa đế quốc đã tiến tới trình độ hoàn bị gần như là khoa học. Nó dùng những người vô sản da trắng để chinh phục những người vô sản các thuộc địa. Sau đó nó lại tung những người vô sản ở một thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa khác. Sau hết, nó dùng những người vô sản ở các thuộc địa thống trị những người vô sản da trắng”.
Do đó, “Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Française) là cuốn sách tập hợp các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các tờ báo ở Pháp và ở Liên Xô từ năm 1921 đến năm 1924. Cuốn sách gồm 12 chương và phần phụ lục được một số đồng chí của Người xuất bản lần đầu tiên tại Thư quán lao động (Libraire du Travail) ở Paris vào năm 1925.
Tháng 6/1924, Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản. Sau đó, Người được bầu làm Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Khi được Quốc tế Cộng sản cử hoạt động tại Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với các đồng chí của mình là người Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Indonesia, Miến Điện… tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (1925).
Cũng trong năm 1925, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với tổ chức “Cộng sản đoàn” làm nòng cốt để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Bởi vậy, Người chủ trương phải lập một tờ báo cho Hội. Đó là Báo “Thanh Niên” do Người sáng lập, ra số 1 vào ngày 21/6-1925, trụ sở ở số nhà 13A đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc.
Tiếp theo báo “Thanh Niên”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí của mình còn xuất bản các tờ báo: “Công Nông” (từ tháng 12/1926 đến đầu năm 1928), “Lính Kách Mệnh” (từ đầu năm 1927 đến đầu năm 1928) và Nguyệt san “Việt Nam Tiền Phong” (ra số đầu vào năm 1927). Người cũng sáng lập tờ “Thân Ái” tại Thái Lan vào năm 1928. Tờ này là cơ quan ngôn luận của Hội Thân Ái, chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên của Việt kiều ở Thái Lan. Hiện nay Bảo tàng Lịch sử quốc gia chỉ mới sưu tầm được 4 số báo “Thân Ái”, đó là số 4 phát hành vào năm 1928 và các số 33-35-38 phát hành vào đầu năm 1930.
Tháng 2/1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Thực hiện quyết định của Hội nghị thành lập Đảng, Tạp chí “Đỏ” được xuất bản. Người chính là người sáng lập và chủ biên đầu tiên của tạp chí. Tạp chí Đỏ số 1 ra mắt bạn đọc ngày 5/8/1930.
Đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, chỉ đạo Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thành lập Mặt trận Việt Minh (19/5/1941). Sau đó Người cho thành lập Báo “Việt Nam Độc Lập” vào năm 1941 và Báo “Cứu Quốc” vào năm 1942. Những tờ báo này có tác động to lớn trong việc kêu gọi nhân dân Việt Nam hăng hái tham gia Mặt trận Việt Minh đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó đưa đến sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945).
Nói về duyên nợ của mình với báo chí cách mạng, tại Đại hội lần thứ II của Hội Nhà báo Việt Nam (ngày 16/4/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhớ lại: “Về nội dung viết, mà các cô, các chú gọi là “đề tài”, thì tất cả những bài Bác viết chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như vậy đó”.
Nguyễn Văn Toàn