Các kịch bản về khả năng áp thuế của Mỹ và tác động đến xuất khẩu của Việt Nam

18/03/2025 - 23:38
(Bankviet.com) Khả năng Mỹ có thể tăng thuế bình quân đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam từ mức 2,2% lên mức 5,1% - là mức mà Việt Nam đang áp đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, khi đó số tiền thuế tăng thêm ước tính sẽ khoảng 4 tỷ USD…

3 kịch bản áp thuế với Việt Nam

Việt Nam hiện là đối tác thương mại hàng hóa thứ 8 của Mỹ (tổng kim ngạch hai chiều năm 2024 là 149,7 tỷ USD - chiếm 2,8% tổng giá trị thương mại hàng hóa của Mỹ); đứng thứ 6 về xuất khẩu sang Mỹ (136,6 tỷ USD, chiếm 4,2% tổng nhập khẩu hàng hóa của Mỹ), đứng thứ 3 về xuất siêu sang Mỹ (123,5 tỷ USD) năm 2024.

Theo nhận định của các chuyên gia, với quan điểm thương mại quốc tế phải cân bằng và công bằng hơn và quan sát một số quyết sách gần đây của Tổng thống Donald Trump, khả năng Việt Nam bị áp thêm thuế có thể phải tính đến.

Tại Hội thảo “Triển vọng thị trường chứng khoán 2025 - Sức bật từ kỳ vọng mới” do Công ty chứng khoán Nhất Việt (VFS) tổ chức chiều ngày 10/3, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV kiêm Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã đánh giá, các chính sách đối ngoại, kinh tế của Tổng thống Donald Trump tạo ra những cơ hội đối với Việt Nam về xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài nhưng cũng đem lại thách thức, đặc biệt là khả năng bị áp thuế đối ứng lên 5,1%, tương ứng với khoảng 4 tỷ USD Việt Nam phải trả thêm.

can-van-luc.png

Chia sẻ cụ thể hơn về con số 4 tỷ USD mà Việt Nam phải trả thêm, TS. Cấn Văn Lực cho biết, Nhóm Nghiên cứu BIDV đã đánh giá khả năng Việt Nam có thể bị áp thuế theo 3 kịch bản:

Kịch bản 1 (kịch bản cơ sở, xác suất 50%): Mỹ có thể áp thuế đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam bằng với mức mà Việt Nam đang áp đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ (theo chính sách thuế "đối ứng/có đi có lại"). Theo đó, Mỹ có thể tăng thuế bình quân đối với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam từ mức 2,2% (theo phương pháp tính thuế bình quân gia quyền) lên mức 5,1% (là mức mà Việt Nam đang áp đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ), theo WTO. Khi đó, số tiền thuế tăng thêm ước tính sẽ khoảng 4 tỷ US.

“Đây là một con số không nhỏ, trừ khi Việt Nam chủ động giảm thuế đối ứng cho hàng nhập khẩu từ Mỹ (khi đó, số tiền thuế giảm ước tính sẽ là 0,53 tỷ USD, với giả định nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam năm 2025 tăng khoảng 20%)…”, chuyên gia đánh giá.

Đồng thời, chuyên gia cho rằng thời điểm áp thuế đối ứng này (nếu có) sẽ khó có thể diễn ra ngay vì Mỹ cần tính toán với hơn 200 đối tác toàn cầu và rất nhiều dòng sản phẩm khác nhau. Tuy nhiên, thời gian có thể sớm hơn đối với các nước đang áp mức thuế đối ứng cao hơn nhiều so với Mỹ (như Ấn Độ, Hàn Quốc, Brazil…).

Kịch bản 2 (kịch bản tiêu cực, xác suất 25%): Mỹ có thể áp mức thuế 10% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam (thay vì mức 3,3% bình quân giản đơn hay 2,2% bình quân gia quyền như hiện nay), tương tự như nhiều quốc gia khác như Tổng thống Trump đã từng tuyên bố. Khi đó, xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ có thể giảm khoảng 3-5% năm 2025 xuống mức tăng 15-17% (từ mức tăng khoảng 20% hiện tại sang thị trường Mỹ), các thị trường xuất khẩu khác chưa kịp chuyển hướng được ngay, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam có thể giảm khoảng 1,5-2 điểm % và tăng trưởng GDP có thể giảm khoảng 0,2-0,3 điểm % năm 2025 (năm sau có thể giảm nhiều hơn do thời gian dài hơn – đủ 12 tháng thay vì 9 tháng như năm nay với kịch bản mức thuế 10% này bị tính từ đầu quý II/2025).

Kịch bản 3 (kịch bản tích cực, xác suất 25%): Mỹ không áp thêm thuế hoặc chỉ áp thuế cao hơn đối với một số mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam (như thép, nhôm…) với mức tương tự như các quốc gia khác. Khi đó, Việt Nam sẽ cạnh tranh sòng phẳng với hàng hóa cùng loại của các nước; có thể tận dụng được một số cơ hội như nêu trên để có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu đã đề ra.

Theo TS. Cấn Văn Lực, ngoài tác động đến xuất khẩu và tăng trưởng, chính sách tăng thuế này còn khiến giá cả tăng, áp lực lạm phát và tỷ giá gia tăng, thị trường chứng khoán và tiền tệ biến động nhiều hơn như nhiều quốc gia khác, đòi hỏi điều hành chính sách nhanh nhạy, chủ động và kịp thời hơn.

Làm gì để hạn chế tối đa tác động tiêu cực?

Báo cáo nghiên của TS. Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia BIDV cho rằng, để hạn chế tối đa tác động tiêu cực bởi chính sách đối ngoại, kinh tế của Tổng thống D.Trump, cần sự vào cuộc của cả nhà nước và doanh nghiệp.

Đối với cơ quan quản lý nhà nước, trước hết cần chú trọng hơn nữa các biện pháp thúc đẩy hợp tác cùng có lợi với Mỹ trên nhiều lĩnh vực, tăng cường các kênh đối ngoại. Đồng thời, cần kiên định đa dạng hóa thị trường, đối tác, sản phẩm; tận dụng tốt hơn 17 FTA đã ký kết.

Cùng với đó, Việt Nam cần xem xét thực hiện một số biện pháp nhằm cân bằng thương mại hơn với Mỹ theo hướng: Trao đổi cởi mở với Mỹ về những biện pháp giúp cân bằng hơn cán cân thương mại; Xem xét chủ động có thể giảm thuế đối ứng như nêu trên và tăng nhập khẩu từ Mỹ, nhất là những sản phẩm mà Mỹ có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu (như chất bán dẫn, khí hóa lỏng tự nhiên - LNG, máy bay, thiết bị hàng không, thiết bị y tế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, nông sản...). Về lâu dài, Việt Nam có thể tính đến phương án đàm phán, ký kết FTA với Mỹ.

Ngoài ra, các bộ, ngành liên quan cần sớm xây dựng những nhóm giải pháp đặc thù đối với các ngành, lĩnh vực xuất khẩu chủ lực, nhất là 5 lĩnh vực trọng yếu (điện tử; dệt may- da giầy; gỗ và sản phẩm từ gỗ; nông thủy hải sản; thép và nhôm) nhằm hạn chế suy giảm; quan tâm tăng cường nội lực, tính tự chủ, tự cường và kết nối giữa các khối DN (trong nước và FDI) và giữa các DN trong chuỗi giá trị để đảm bảo tăng khả năng thích ứng, phát triển ổn định và bền vững.

Các bộ, ngành, hiệp hội ngành nghề cần chủ động làm việc với đối tác phía Mỹ và các nước liên quan; cung cấp thông tin, định hướng, tư vấn và tập hợp kiến nghị, vướng mắc của các DN; nhanh chóng bàn thảo và có giải pháp phù hợp, kịp thời và hiệu quả đối với những khó khăn, vướng mắc đó…

Đối với cộng đồng DN, trước hết, các DN, đặc biệt là DN xuất khẩu sang Mỹ cần chủ động và phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước, thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, đại sứ quán, các tổ chức quốc tế, các nhà nhập khẩu để nắm bắt tình hình và thông tin, diễn biến của thị trường, từ đó có các biện pháp ứng phó kịp thời, phù hợp.

DN Việt Nam có thể tận dụng cơ hội gia tăng thị phần (dù ít ỏi), đặc biệt là những ngành Việt Nam có thế mạnh như điện tử, dệt may, da giầy, thủy sản, gỗ...., với điều kiện tăng khả năng đáp ứng các điều kiện của đối tác.

Đặc biệt, DN cần cân nhắc, minh bạch hóa trong việc sử dụng các nguyên liệu bán thành phẩm và thành phẩm từ Trung Quốc cũng như các quốc gia đang bị Mỹ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại để hạn chế nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá, phòng vệ thương mại…

Đồng thời, DN cần tăng cường quản lý, lưu trữ chứng từ về nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu, sản phẩm để minh bạch thông tin về nguồn gốc xuất xứ, tỷ lệ nội địa hóa, các tiêu chuẩn môi trường và lao động… nhằm vượt qua các rào cản pháp lý và tạo dựng niềm tin với người tiêu dùng và đối tác tại thị trường xuất khẩu

DN cũng cần đa dạng hóa thị trường, đối tác, chuỗi cung ứng, tận dụng tốt lợi thế từ các FTA đã ký kết, trong đó hướng tới các thị trường lớn, nhiều tiềm năng như thị trường Halal (với quy mô 2,2 tỷ người), thị trường châu Phi, Nam Mỹ... Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, kinh doanh tuần hoàn nhằm tận dụng nguyên liệu phế thải, giảm chi phí, giảm giá thành để có thể chia sẻ một phần chi phí thuế bị tăng lên cùng với đối tác.

Cùng với đó, nâng cao năng lực quản trị rủi ro như rủi ro lãi suất, tỷ giá, điều tra phòng vệ thương mại… ; Tăng cường sử dụng các công cụ phái sinh tài chính nhằm kiểm soát những rủi ro này tốt hơn.

Các DN cũng cần chủ động, tích cực chuyển đổi "kép" (số và xanh) nhằm vừa theo kịp xu thế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đối tác và người tiêu dùng, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh, thương hiệu, tăng khả năng tiếp cận vốn, phát triển bền vững và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

5 nhóm ngành chính chiếm 64,3% tổng kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ (năm 2024), bao gồm: điện tử: các mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện (chiếm 28,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ); dệt may, da giầy (chiếm 21,9%); gỗ và sản phẩm từ gỗ (chiếm 7,6%); nông - thủy - hải sản (chiếm 3,5%); thép và nhôm (chiếm 2,7%).

Thanh Thanh

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ