Châu Á có thể tăng cường khả năng chống chịu cho nền kinh tế trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng

02/05/2025 - 06:50
(Bankviet.com) Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vừa công bố Báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2025. Đối với các nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, xu hướng chung là điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng, trong đó, Campuchia có mức dự báo giảm lớn nhất, lên tới -1,9%. Dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2025 cũng bị điều chỉnh giảm 0,9% so với bản dự báo tăng trưởng hồi tháng 10/2024, ở mức 5,2%, trong khi đó tăng trưởng chung cho toàn khu vực ASEAN dự báo là 4,1%.

Tại Blog mới xuất bản, các chuyên gia của IMF nhận định: Khi hệ thống kinh tế toàn cầu đang được thiết lập lại, thuế quan của Mỹ là mức cao nhất trong một thế kỷ- với một số mức thuế cao nhất nhắm vào châu Á. Là khu vực dẫn đầu trong thương mại toàn cầu, châu Á chiếm gần 60% tăng trưởng toàn cầu vào năm 2024. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng thành công của khu vực này, dựa trên tự do hóa thương mại và hội nhập vào chuỗi giá trị, đang phải đối mặt với nhiều thách thức.

Trong bối cảnh này, triển vọng cho châu Á và Thái Bình Dương đã trở nên u ám hơn. Trong dự báo, IMF ước tính tăng trưởng sẽ chậm lại còn 3,9% trong năm nay từ mức 4,6% của năm ngoái. Việc hạ 0,5 điểm phần trăm, mức giảm mạnh nhất kể từ đại dịch, phản ánh nhu cầu toàn cầu yếu hơn, thương mại giảm, điều kiện tài chính thắt chặt hơn và bất ổn gia tăng. IMF dự báo tăng trưởng khu vực này năm 2026 là 4%, cũng chậm hơn so với dự báo trước đó.

Sự suy yếu này xảy ra trên phạm vi rộng. Tăng trưởng ở các nền kinh tế phát triển trong khu vực có khả năng đạt 1,2% trong năm nay, giảm 0,7 điểm phần trăm so với tháng 1. Tuy nhiên, tại Nhật Bản, tăng trưởng được dự báo sẽ tăng khiêm tốn lên 0,6% từ mức 0,1% của năm ngoái vì dự kiến tăng trưởng tiền lương thực tế sẽ hỗ trợ tiêu dùng. Nếu không có lực cản bên ngoài, mức tăng sẽ mạnh hơn.

Ở các nền kinh tế thị trường mới nổi và đang phát triển, tăng trưởng năm nay dự kiến đạt 4,5%, giảm 0,5 điểm phần trăm. Ở Trung Quốc, việc mở rộng tài khóa trong ngân sách năm 2025 dự kiến sẽ bù đắp một phần tác động tiêu cực của việc tăng thuế quan và chính sách thương mại. Tăng trưởng ở Trung Quốc đã bị hạ xuống còn khoảng 4% trong năm nay và năm sau.

imf-areo.png
Các mức thuế quan của Mỹ áp đối với các nền kinh tế châu Á.

Tại Ấn Độ, quốc gia kém cởi mở hơn so với các nền kinh tế khác, IMF dự báo tăng trưởng sẽ chậm lại ở mức vừa phải, lần lượt là 6,2 và 6,3% vào năm 2025 và 2026. Tăng trưởng tại các nước ASEAN giảm mạnh hơn xuống còn 4,1% vào năm 2025 do những cú sốc bên ngoài và nhu cầu trong nước yếu kém ở một số nền kinh tế.

Thuế quan sẽ gây sức ép lên nền kinh tế toàn cầu và làm giảm đà tăng trưởng kinh tế hậu đại dịch của khu vực. Đó là vì xuất khẩu đã dẫn đầu tăng trưởng ở nhiều nền kinh tế mới nổi trong bối cảnh nhu cầu trong nước ảm đạm. Ở một số nền kinh tế, việc gia tăng vay nợ đã gây sức ép lên chi tiêu của người tiêu dùng và khiến nhiều người phải chịu gánh nặng chi phí trả nợ cao.

Xuất khẩu của châu Á sang Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác đã tăng mạnh do nhu cầu đối với các sản phẩm công nghệ cao, bao gồm cả sự gia tăng nhờ trí tuệ nhân tạo. Điều đó đã thúc đẩy đáng kể giá trị bán hàng sang Mỹ cũng như thông qua tuyến đường trực tiếp hơn thông qua chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến nhiều nền kinh tế châu Á dễ bị tổn thương hơn trước nhu cầu biến động của Mỹ và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng.

thue-quan-voi-chau-a.png
Châu Á ngày càng kết nối nhiều hơn với Mỹ, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các chuỗi cung ứng toàn cầu

Cân bằng lại và hội nhập

Rủi ro đối với triển vọng toàn cầu và khu vực đang nghiêng về phía tiêu cực, bao gồm căng thẳng thương mại lớn hơn, điều kiện thị trường tài chính chặt chẽ hơn và bất ổn gia tăng. Về mặt tích cực, các cơ hội thương mại mới, thông qua đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và các hiệp định thương mại mới, cùng động lực cải cách cơ cấu mới có thể thúc đẩy tăng trưởng.

Châu Á cũng phải đối mặt với những trở ngại về mặt cấu trúc, đáng chú ý là tính dễ bị tổn thương của mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Thêm vào đó là áp lực từ tình trạng già hóa dân số và suy giảm ở một số quốc gia trong khu vực và xu hướng giảm năng suất gần đây.

Những trở ngại có thể xảy ra từ căng thẳng thương mại gia tăng đòi hỏi một mô hình tăng trưởng cân bằng hơn, được dẫn dắt bởi nhu cầu trong nước mạnh hơn và bền vững về mặt cấu trúc ở một số quốc gia, đa dạng hóa xuất khẩu hơn và tăng cường quan hệ kinh tế khu vực nói chung.

Thúc đẩy nhu cầu trong nước, đặc biệt là tiêu dùng tư nhân, đòi hỏi hành động chính sách mang tính cấu trúc. Mạng lưới an sinh xã hội hiệu quả hơn có thể giúp giảm tiết kiệm phòng ngừa và thúc đẩy lòng tin, đặc biệt là ở Trung Quốc, nơi các kế hoạch thúc đẩy tiêu dùng là một bước đi đúng hướng.

Ở những nơi nợ hộ gia đình cao, các biện pháp phối hợp để tái cấu trúc nợ cho những người có gánh nặng lớn, cải thiện hiểu biết tài chính và ngăn chặn việc vay mượn quá mức sẽ giúp hỗ trợ tiêu dùng. Ví dụ, tại Thái Lan, chính quyền đã thực hiện các bước như cung cấp hỗ trợ trả nợ và đưa ra các chương trình tái cấu trúc nợ. Tương tự như vậy, việc thúc đẩy đầu tư tư nhân sẽ đòi hỏi cải cách thị trường lao động, cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư vào y tế và giáo dục để xây dựng vốn con người.

Việc thúc đẩy đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và hội nhập khu vực có thể giúp bảo vệ nền kinh tế khỏi những cú sốc toàn cầu, ngay cả ở một khu vực mà thương mại bền vững hơn so với phần còn lại của thế giới. Ví dụ, chúng ta thấy phạm vi đáng kể cho thương mại nội khối nhiều hơn ở ASEAN, dựa trên sự hội nhập lớn hơn trong các lĩnh vực thương mại và tài chính. Tương tự như vậy, các sáng kiến như Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực có thể giúp tăng cường hợp tác - không chỉ trong thương mại hàng hóa mà còn trong dịch vụ, nền kinh tế kỹ thuật số và hài hòa hóa quy định. Thành công trong các lĩnh vực này ngày càng phụ thuộc vào năng lực kỹ thuật số, một lĩnh vực mà Châu Á đang có những bước tiến đáng kể. Singapore là một trong những nền kinh tế có khả năng cạnh tranh kỹ thuật số cao nhất, còn Hàn Quốc và Ấn Độ dẫn đầu về dịch vụ chính phủ kỹ thuật số.

Cân bằng hành động cho các chính sách

Trong bối cảnh bất ổn gia tăng hiện nay, các chính sách phải được hiệu chỉnh linh hoạt và điều chỉnh theo hoàn cảnh của từng quốc gia. Ví dụ, khi nói đến chính sách tài khóa, có một sự đánh đổi tinh tế. Đại dịch COVID-19 khiến nhiều quốc gia có nợ cao hơn và ít không gian hơn trong ngân sách chính phủ. Việc xây dựng lại các vùng đệm tài khóa sau khi nợ tăng do đại dịch là rất quan trọng đối với khả năng phục hồi. Tuy nhiên, do cú sốc đáng kể đối với nhu cầu bên ngoài, chính sách tài khóa cũng phải giảm bớt tác động trong ngắn hạn. Điều này cần được hỗ trợ bằng nới lỏng tiền tệ, khi lạm phát gần hoặc dưới mục tiêu, và bằng cách cho phép tỷ giá hối đoái hoạt động như một bộ giảm xóc. Rủi ro đối với sự ổn định tài chính từ các biến động thị trường hỗn loạn cần được quản lý cẩn thận, được hướng dẫn bởi khuôn khổ chính sách tích hợp.

Trên thực tế, điều này có nghĩa là cung cấp hỗ trợ có mục tiêu và có thời hạn cho những người và doanh nghiệp dễ bị tổn thương, đặc biệt là trong các lĩnh vực xuất khẩu bị ảnh hưởng nặng nề, và lựa chọn cẩn thận các khoản đầu tư công để duy trì nhu cầu. Đồng thời, các quốc gia cần có các chiến lược đáng tin cậy để củng cố trong những năm tới, thường sẽ đòi hỏi phải điều chỉnh tài chính dần dần được neo giữ trong một khuôn khổ trung hạn được xác định rõ ràng. Điều này bao gồm cải thiện hiệu quả chi tiêu công và cải cách thuế để tăng thêm doanh thu.

Ấn Độ là một trong những nền kinh tế đang chuyển động theo hướng này. Quốc gia này đã đưa ra chính sách mới nhằm kiềm chế nợ ở mức quy định cùng với các nỗ lực tăng doanh thu bằng cách thúc đẩy hiệu quả quản lý thuế và bảo vệ chi tiêu xã hội.

Các quốc gia khác cũng đi theo con đường tương tự. Mông Cổ đã tăng cường các quy tắc tài chính của mình để tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và các mỏ neo tài chính dài hạn. Hàn Quốc đặt mục tiêu đưa ra một quy tắc tài chính chính thức để hướng dẫn chính sách tài chính, mặc dù luật này vẫn đang chờ quốc hội thông qua.

Sri Lanka đã đạt được tiến bộ đáng kể về cải cách tài chính theo chương trình do IMF hỗ trợ. Điều này bao gồm việc huy động doanh thu đáng kể và giảm thâm hụt, với doanh thu thuế tăng và thâm hụt tài chính thu hẹp đáng kể kể từ năm 2022, cho thấy tác động của các nỗ lực chính sách bền vững.

Những nỗ lực này cùng nhau cung cấp các khuôn mẫu hữu ích về cách các nền kinh tế châu Á có thể cân bằng giữa hỗ trợ tăng trưởng trong ngắn hạn với nhu cầu đảm bảo tính bền vững tài chính trong dài hạn.

Nền tảng cho khả năng chống chịu

Ngoài các chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách cơ cấu sẽ là điều cần thiết để có sức chống chịu lâu dài. Tăng trưởng năng suất ở châu Á đã chậm lại trong thập kỷ qua, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi.

Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo và các công nghệ tiên tiến khác có thể giúp đảo ngược tình trạng này nếu được hỗ trợ bởi các khoản đầu tư vào kỹ năng, cơ sở hạ tầng và khuôn khổ pháp lý. Số hóa, vốn đã được triển khai ở nhiều nơi tại châu Á, có thể giúp tăng năng suất và tạo ra việc làm mới, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ.

Cải cách tài chính cơ cấu và hội nhập khu vực nên đi kèm với các nỗ lực đào sâu thị trường vốn, tăng cường hòa nhập tài chính và cải thiện quản trị. Đây không phải là những giải pháp nhanh chóng nhưng chúng rất quan trọng để đảm bảo tăng trưởng không chỉ được duy trì mà còn toàn diện và bền vững. Đối với các quốc gia Đảo Thái Bình Dương, khả năng phục hồi trước thiên tai và biến đổi khí hậu là tối quan trọng. Trong bối cảnh này, việc tiếp cận với tài chính khí hậu sẽ rất quan trọng.

du-bao-chau-a-tbd.png
Cập nhật dự báo kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương của IMF

Ngã tư chiến lược

Mô hình tăng trưởng do xuất khẩu của châu Á mang lại sự thịnh vượng chưa từng có. Nhưng thế giới đã thay đổi. Thương mại trở nên không chắc chắn hơn, ngân sách chính phủ bị hạn chế hơn và nhu cầu trong nước quan trọng hơn bao giờ hết.

Các nhà hoạch định chính sách phải hành động quyết đoán. Điều đó có nghĩa là sử dụng chính sách tài khóa một cách thận trọng để hỗ trợ tăng trưởng trong ngắn hạn ở những nơi bị ảnh hưởng nặng nề, đồng thời cam kết giảm thâm hụt tài khóa trong năm năm tới. Nó cũng đòi hỏi phải giải phóng toàn bộ tiềm năng của thị trường trong nước thông qua cải cách và xây dựng mối quan hệ khu vực chặt chẽ hơn để xây dựng khả năng phục hồi chung.

Những thách thức là có thật. Những cơ hội cũng vậy. Việc áp dụng các lựa chọn chính sách thông minh sẽ giúp châu Á viết nên chương tiếp theo cho câu chuyện tăng trưởng của mình- không chỉ là công xưởng của thế giới, mà còn là một một khu vực kinh tế năng động, kiên cường và hội nhập, các chuyên gia IMF đặt kỳ vọng.

H.Y

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ