Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 sẽ đạt khoảng 6%

12/02/2024 - 15:46
(Bankviet.com) Với nhận định khu vực bên ngoài và các động lực tăng trưởng trong nước sẽ tiếp tục đà phục hồi, ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 sẽ đạt khoảng 6%, trong đó, Động lực quan trọng sẽ là sự ổn định kinh tế vĩ mô thận trọng nhờ các chính sách tài chính và tiền tệ chủ động.
adb-16965827355841602216797.jpg
Ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam

Phóng viên: Dưới góc nhìn của tổ chức quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam, ông và ADB đánh giá như thế nào về kinh tế Việt Nam năm 2023? Đâu là những điểm sáng cho kinh tế Việt Nam năm 2024, thưa ông?

Ông Shantanu Chakraborty: Năm 2023 là một năm đầy thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong báo cáo mới công bố gần đây, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã điều chỉnh lại dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 5,2% trong năm 2023 (thực tế GDP năm 2023 đạt 5,05% - PV), giảm so với dự báo 5,8% trước đó. Lực cản mạnh đến từ suy thoái kinh tế toàn cầu và nhu cầu bên ngoài sụt giảm, trong khi chính phủ đã chủ động đưa ra các phản ứng chính sách để duy trì sự phục hồi vào năm 2023. Lạm phát cơ bản (không bao gồm các mặt hàng giá được kiểm soát) ở mức 4,3% (thực tế là 4,16% - PV), trong khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ ở mức 3,2% vào cuối tháng 11/2023 (hết năm 2023, CPI tăng 3,25% - PV).

Các yếu tố chính giúp nền kinh tế có khả năng phục hồi khá tốt vào năm 2023 bao gồm: sự phục hồi của các dịch vụ trong nước, du lịch, chi tiêu công. Giải ngân đầu tư công đến cuối tháng 11/2023 đạt 75% kế hoạch chi trong năm, tăng đáng kể 22% so với cùng kỳ. Việc giải ngân vốn đầu tư công tuy còn chậm nhưng đã phần nào thúc đẩy tiêu dùng trong nước ở mức 9,6% trong tháng 11/2023 so với cùng kỳ năm 2022. Khu vực FDI cũng cho thấy những kết quả tích cực, vốn FDI giải ngân đạt 20,3 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ, là mức tăng 11 tháng cao nhất trong 6 năm qua. Tổng vốn FDI đăng ký tính đến ngày 25/11/2023 ước tính đạt 29 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ.

Nền tảng kinh tế vĩ mô vẫn vững vàng với việc nới lỏng tiền tệ kịp thời trong nửa đầu năm, trong khi lạm phát được kiểm soát khá tốt dưới mục tiêu 4% Quốc hội đề ra. Biến động tỷ giá VND/USD được giữ ở mức tương đối ổn định.

Những thách thức chính được nhìn thấy trong nền kinh tế thực, đặc biệt là tác động của tăng trưởng thương mại âm. Điều này được kết hợp bởi sự phục hồi ngắn ngủi trong quý III/2023 và hiệu quả giao dịch mờ nhạt kể từ đó. Tính đến cuối tháng 11/2023, xuất khẩu giảm khoảng 6% trong khi nhập khẩu giảm trên 10%, khiến kim ngạch thương mại tổng thể giảm 8,3%. Mặc dù điều này dẫn đến thặng dư thương mại khá lớn gần 26 tỷ USD, nhưng điều đó vẫn có nghĩa là các đơn đặt hàng xuất khẩu suy giảm và việc làm trong lĩnh vực chế xuất vẫn chưa phục hồi. Một dấu hiệu thách thức nữa là tín dụng tăng trưởng chậm, là kết quả của sự yếu kém của nền kinh tế thực, trong đó có thách thức ở lĩnh vực bất động sản.

ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2024 ở mức 6%, với nhận định sự phục hồi nhất định của khu vực bên ngoài và các động lực tăng trưởng trong nước sẽ tiếp tục đà phục hồi từ năm 2023. Động lực quan trọng sẽ là sự ổn định kinh tế vĩ mô thận trọng nhờ các chính sách tài chính và tiền tệ chủ động, tiếp tục từ năm 2023. Nhưng chỉ điều này thôi thì chưa đủ. Đầu tư công, tiêu dùng nội địa và phục hồi xuất khẩu là 3 động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2024.

Theo thứ tự ưu tiên, đầu tư công với tư cách là biện pháp kích thích tài khóa cần được ưu tiên vì Việt Nam vẫn còn dư địa tài chính. Nợ công được kiểm soát tốt ở mức khoảng 38% GDP tính đến cuối năm 2022. Việt Nam cần đẩy nhanh giải ngân khoản đầu tư công khá lớn, khoảng 30 tỷ USD. Điều này sẽ trực tiếp hỗ trợ các ngành công nghiệp như xây dựng, khai thác mỏ và mang lại nhiều cơ hội việc làm hơn. Việc thực thi chính sách có thể hiệu quả hơn nhờ chi tiêu đầu tư công hiệu quả vào cơ sở hạ tầng có chất lượng để kích thích các hoạt động kinh tế. Điều quan trọng nữa là phải nhanh chóng thực hiện các biện pháp tài chính khác. Chính phủ cũng có thể xem xét các biện pháp an sinh xã hội để hỗ trợ thị trường lao động, bao gồm trợ cấp thất nghiệp hoặc khuyến khích đào tạo lại kỹ năng.

dau-tu-cong-493.jpg
Đầu tư công với tư cách là biện pháp kích thích tài khóa cần được ưu tiên vì Việt Nam vẫn còn dư địa tài chính

Thứ hai, tiêu dùng trong nước có thể được thúc đẩy nhờ nhu cầu gia tăng từ các biện pháp tài khóa, được hỗ trợ bởi chính sách tiền tệ phù hợp để giữ lãi suất ở mức tương đối thấp. Chính sách phối hợp có thể hỗ trợ phục hồi kinh tế một cách hiệu quả, có tính đến sự ổn định tương đối về giá và nhu cầu yếu.

Cuối cùng, trong khi thị trường toàn cầu được dự đoán sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong giai đoạn 2023-2024, đây là cơ hội để Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo ra giá trị trong mạng lưới sản xuất toàn cầu nhằm cải thiện hoạt động xuất khẩu và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các thị trường lớn.

Các chính sách và biện pháp thúc đẩy các động lực tăng trưởng có thể được bổ sung bằng những cải cách mạnh mẽ hơn về môi trường kinh doanh, tăng cường hơn nữa thu hút dòng vốn FDI và nâng cao khả năng cạnh tranh để phục hồi nhu cầu thương mại vào năm 2024.

Phóng viên: Trong bức tranh chung đó, ông đánh giá như thế nào về đóng góp của ngành Ngân hàng nói chung, các ngân hàng thương mại nói riêng vào sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023?

Ông Shantanu Chakraborty: Ngành Ngân hàng luôn đóng vai trò trung tâm trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào và sức khỏe của bất kỳ nền kinh tế nào cũng như sức khỏe của ngành Ngân hàng luôn đi đôi với nhau. Như vậy, ở Việt Nam, ngành Ngân hàng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi kinh tế trước những thách thức và khó khăn trong năm 2023. Chính sách tiền tệ phù hợp nhưng linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã góp phần quan trọng trong duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát trong năm 2023.

Trước hết, hãy nói về vai trò của ngành Ngân hàng trong ổn định tài chính. Trong khi ngành Ngân hàng phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong chu kỳ kinh tế suy thoái với môi trường chính sách tiền tệ thay đổi nhanh chóng vào năm 2023, ảnh hưởng tiêu cực đến cơ sở người vay cũng như khả năng sinh lời của họ, hệ thống vẫn duy trì sự ổn định để tiếp tục thực hiện chức năng trung gian tài chính cho nền kinh tế. Bất chấp tác động lan tỏa của những bất thường trên thị trường vốn, với sự suy thoái của thị trường bất động sản và những trở ngại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, sự ổn định của ngành vẫn được duy trì.

Thứ hai, vai trò quan trọng của ngành Ngân hàng được thể hiện trong việc tăng cường quản lý rủi ro suy thoái. Với tỷ lệ nợ xấu (NPL) dự kiến sẽ gia tăng trong chu kỳ suy thoái này, để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn và kích thích tăng trưởng tín dụng, vào tháng 4/2023, NHNN đã cho phép các ngân hàng cơ cấu lại khoản vay cho khách hàng cho đến tháng 6/2024; đồng thời, cũng yêu cầu các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ để đảm bảo đủ mức vào cuối năm 2024. Theo đó, các ngân hàng đã tăng cường quản lý rủi ro và dự phòng. Các ngân hàng được khuyến nghị tiếp tục cải thiện cơ sở vốn, quản trị doanh nghiệp và quản lý rủi ro, nỗ lực giải quyết các khoản nợ có vấn đề. Bất chấp khó khăn, các ngân hàng vẫn cố gắng duy trì năng lực tài chính và lợi nhuận thông qua việc tăng cường chuyển đổi số, cắt giảm chi phí hoạt động...

tuuuuuu.jpg
Năm 2023, ngành Ngân hàng tiếp tục đóng góp quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh và đóng góp tích cực cho quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam

Cuối cùng, phải ghi nhận những nỗ lực của ngành Ngân hàng trong việc thực hiện kế hoạch hành động ngân hàng xanh. NHNN đã ban hành kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia trong lĩnh vực ngân hàng, mở đường cho phát triển thị trường tín dụng xanh nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về mục tiêu không phát thải ròng.

Nhìn chung trong năm 2023, ngành Ngân hàng tiếp tục đóng góp quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh và đóng góp tích cực cho quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam.

Phóng viên: Với những kết quả đạt được trong năm 2023 và những dự cảm cho năm 2024, ông có dự báo như thế nào về hoạt động ngân hàng tại Việt Nam, đâu là những thách thức ngành Ngân hàng sẽ phải đối mặt trong năm 2024? Để vượt qua những thách thức đó, cần những giải pháp nào từ cơ quan quản lý, cũng như các ngân hàng thương mại, thưa ông?

Ông Shantanu Chakraborty: Ngành Ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển vào năm 2024 với cân nhắc ở nhiều khía cạnh.

Thứ nhất, chính sách tiền tệ. Việc nới lỏng chính sách tiền tệ cần được thực hiện thận trọng trong bối cảnh áp lực lạm phát vẫn còn. Đối với ngành Ngân hàng, bất ổn thị trường chưa gây ra rủi ro hệ thống nghiêm trọng nhưng nợ xấu đã tăng lên, do đó các ngân hàng cần tập trung vào việc trích lập dự phòng thận trọng, xây dựng bộ đệm vốn và xử lý các khoản nợ khó đòi, tránh nợ xấu mới.

Thứ hai, chất lượng tài sản trong chu kỳ suy thoái. Mối lo ngại về nợ xấu sẽ tiếp tục diễn ra từ năm 2023 và là rủi ro suy giảm lớn đối với ngành Ngân hàng Việt Nam vào năm 2024 và cần được quản lý theo diễn biến của nền kinh tế tổng thể. Việc thực hiện tái cơ cấu khoản vay cho phép hoãn trả nợ có thể hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nhưng nợ xấu có thể tăng thêm do không chắc chắn về các khoản vay được cơ cấu lại sau khi hết hạn hoãn trả nợ vào tháng 6/2024. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ nhanh hơn trong năm 2024, thị trường bất động sản dần phục hồi, triển vọng tích cực hơn của doanh nghiệp có thể giúp củng cố triển vọng cho ngành Ngân hàng.

67-1669609521-anh-2.jpg
Về phía cộng đồng doanh nghiệp, họ nên tìm kiếm những cơ hội mới với nền kinh tế xanh, vì chiến lược tăng trưởng xanh mới của đất nước có nhiều tiềm năng mạnh mẽ

Thứ ba, mở rộng các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp. Trong thời điểm khó khăn, các ngân hàng có thể mở rộng dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp để tìm kiếm cơ hội tăng trưởng mới. Điều này sẽ phù hợp với định hướng mới của thị trường tín dụng xanh, nơi có nhiều cơ hội đầu tư tích cực về khí hậu mà các ngân hàng có thể cung cấp tài chính.

Thứ tư, tăng cường các quy định về ngân hàng. Đây sẽ là vai trò của cơ quan quản lý nhằm cải thiện sự ổn định của hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng hỗ trợ nền kinh tế hiệu quả hơn và phát triển thị trường ngân hàng xanh.

Phóng viên: Nhân dịp năm mới 2024, ông có kỳ vọng như thế nào về kinh tế Việt Nam nói chung, cộng đồng doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng nói riêng trong năm 2024?

Ông Shantanu Chakraborty: Tất cả chúng ta đều hy vọng và chuẩn bị cho một năm 2024 tốt đẹp hơn. Điều này có nghĩa là chúng ta nên theo đuổi các biện pháp cần thiết để cải thiện hiệu quả kinh tế, như tôi đã nói trước đó.

Hãy để tôi bắt đầu từ phía chính phủ, vẫn cần tiếp tục có những biện pháp chính sách chủ động, bằng những biện pháp mạnh mẽ hơn để nâng cao hiệu quả thực hiện. Về phía cộng đồng doanh nghiệp, nên tìm kiếm những cơ hội mới với nền kinh tế xanh, vì chiến lược tăng trưởng xanh mới của đất nước có nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ. Họ sẽ cần môi trường kinh doanh được cải thiện, đó là nơi chính phủ có thể đóng vai trò hỗ trợ. Về phía hệ thống ngân hàng, như tôi đã nêu ở trên, cần tăng cường sự ổn định hệ thống, đồng thời tiếp tục mở rộng hỗ trợ cho các doanh nghiệp để khai thác những tiềm năng tăng trưởng mới.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Ngô Hải (thực hiện)

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ