Tại phiên họp, các đại biểu tập trung thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, quý III, 9 tháng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong tháng 10 và những tháng còn lại của năm 2023, tình hình phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công, triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia, Báo cáo giữa nhiệm kỳ theo Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Các Bộ trưởng cũng đã phản hồi, trả lời các đề xuất, kiến nghị của các địa phương.
Các báo cáo và ý kiến tại hội nghị thống nhất đánh giá trong 9 tháng, với phương châm "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả", Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ.
Trong đó, Chính phủ đã tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, với 08 Phiên họp xây dựng pháp luật và 09 Hội nghị trực tuyến, phiên họp Chính phủ thường kỳ.
Trong tháng 9, Chính phủ đã ban hành 06 nghị định, 13 nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 02 quyết định quy phạm và 08 công điện. Tính chung 9 tháng, Chính phủ đã ban hành 67 nghị định, 175 nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ ban hành 25 quyết định quy phạm, nhiều quyết định cá biệt và 24 chỉ thị. Đã trình Quốc hội thông qua 09 luật, 02 nghị quyết và cho ý kiến 09 dự án luật; dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua 07 luật, cho ý kiến 06 luật tại kỳ họp thứ 6.
Cùng với đó, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, xác định rõ đây là trọng tâm ưu tiên trong chỉ đạo điều hành. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, với 26 Tổ công tác của thành viên Chính phủ trực tiếp làm việc với địa phương và 05 Tổ công tác đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công.
Chính phủ, Thủ tướng xử lý kịp thời, hiệu quả một khối lượng lớn các nhiệm vụ, công việc thường xuyên ngày càng nhiều, đòi hỏi ngày càng cao; từng bước giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn đọng kéo dài (các doanh nghiệp, dự án thua lỗ, ngân hàng yếu kém) và xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh (như thiên tai, các vụ tai nạn giao thông, cháy nổ đặc biệt nghiêm trọng, các vấn đề quốc phòng, an ninh, đối ngoại…).
Cùng với đó, triển khai thiết thực, hiệu quả nhiều hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế quan trọng, ký kết, phê duyệt các điều ước quốc tế.
Kinh tế - xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực
Phiên họp thống nhất đánh giá, nhìn chung, tình hình kinh tế-xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước và đạt kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, với một số kết quả nổi bật.
Thứ nhất, kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát theo Nghị quyết của Quốc hội.
Lạm phát nhìn chung có xu hướng giảm dần trong bối cảnh lạm phát thế giới neo ở mức cao: CPI bình quân 9 tháng tăng 3,16%, thấp hơn nhiều mục tiêu đề ra (khoảng 4,5%). Tăng trưởng phục hồi tích cực, quý sau cao hơn quý trước: GDP quý I tăng 3,32%, quý II tăng 4,14%, quý III tăng 5,33%; tính chung 9 tháng tăng 4,24%, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại Hội nghị
Trong đó, khu vực nông nghiệp tăng 3,43%; công nghiệp và xây dựng tăng 2,41%; khu vực dịch vụ tăng 6,32%. Đặc biệt, nhiều địa phương phục hồi, tăng trưởng khá cao, như TPHCM quý III tăng 6,71%, tính chung 9 tháng tăng 4,57%; Hà Nội là 6,49% và 6,08%; Bình Dương là 7,51% và 4,49%; Đồng Nai là 6,4% và 5,03%; Hải Phòng là 10,48% và 10,08%; Quảng Ninh là 10,64% và 9,88%.
Thị trường tiền tệ, tỉ giá cơ bản ổn định; mặt bằng lãi suất tiền gửi và cho vay mới bình quân giảm khoảng 1% so với cuối năm 2022. Thu ngân sách nhà nước 9 tháng đạt 75,5% dự toán năm, trong khi miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất 152,5 nghìn tỷ đồng và dự kiến cả năm sẽ đạt dự toán thu.
Xuất nhập khẩu tiếp tục xu hướng tích cực, xuất khẩu tháng 9 tăng 4,6%, nhập khẩu tăng 2,6% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng xuất siêu 21,68 tỷ USD (cùng kỳ là 6,9 tỷ USD). An ninh năng lượng (điện, xăng, dầu), an ninh lương thực được bảo đảm. Thị trường lao động phục hồi tốt, cơ bản bảo đảm cân đối cung cầu lao động (lực lượng lao động tăng 760.000 người so với cùng kỳ).
Thứ hai, các ngành, lĩnh vực chủ yếu phục hồi, phát triển ổn định, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp tiếp tục tăng trở lại, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý III tăng 4,57% (quý II tăng 0,95%, quý I giảm 0,75%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,61%.
Khu vực dịch vụ duy trì mức tăng khá cao: tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 tăng 2,4% so với tháng 8 và 7,5% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng tăng 9,7%. Khách quốc tế đạt 8,9 triệu lượt, gấp 4,6 lần cùng kỳ (vượt kế hoạch năm 2023).
Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế; lúa gạo được mùa được giá; đàn lợn tăng 4,2%; sản lượng gỗ tăng 3,3%; sản lượng thủy sản tăng 2,1% so với cùng kỳ.
Thứ ba, đầu tư được thúc đẩy mạnh mẽ, trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý I tăng 3,6%; quý II tăng 5,6%; quý III tăng 7,6%; tính chung 9 tháng tăng 5,9%.
Vốn đầu tư của khu vực Nhà nước quý I tăng 11,5%; quý II tăng 13,5%; quý III tăng 18,7%; tính chung 9 tháng tăng 15,1%. Đặc biệt, giải ngân vốn đầu tư công 9 tháng đạt trên 363.000 tỷ đồng, bằng 51,38% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ (46,7%) và số tuyệt đối cao hơn khoảng 110.000 tỷ đồng.
Tổng vốn FDI đăng ký 9 tháng đạt 20,21 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ. Vốn FDI thực hiện đạt 15,91 tỷ USD, tăng 2,2%.
Thứ tư, công tác quy hoạch được đẩy mạnh; hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông được tập trung đầu tư. Đã trình Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia; ban hành Quy hoạch điện VIII và nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, vùng, tỉnh. Đến nay đã có 74 quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh đã thẩm định xong (27 quy hoạch đã được phê duyệt). Quyết liệt triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển 6 vùng kinh tế - xã hội; thành lập và chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động, phát huy vai trò của 6 Hội đồng điều phối vùng.
Đã đưa vào sử dụng 8/11 đoạn tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 1; khởi công 12 dự án cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2021 - 2025, 03 cao tốc trục Đông-Tây, Vành đai 3 TPHCM, Vành đai 4 Hà Nội, nhà ga Cảng hàng không quốc tế Long Thành, nhà ga T3 Tân Sơn Nhất… Dự kiến đến cuối năm đưa vào khai thác 1.832 km đường cao tốc (so với 1.000 km vào đầu nhiệm kỳ).
Thứ năm, phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực. Trong tháng 9 có gần 12,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 10,6% so với cùng kỳ; có trên 5,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 13,5%.
Thứ sáu, các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế được chú trọng; an sinh xã hội và đời sống người dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập bình quân người lao động quý III tăng 146.000 đồng so với quý II; tính chung 9 tháng tăng 451.000 đồng so với cùng kỳ. Tỉ lệ hộ dân có thu nhập không thay đổi và tăng lên so với cùng kỳ là 94,1% (cùng kỳ năm 2022 là 83,2%).
Trong tháng 9, đã xuất cấp 3,3 nghìn tấn gạo hỗ trợ cứu đói, giáp hạt; tính chung 9 tháng xuất cấp gần 21,5 nghìn tấn.
Tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật kỷ niệm các ngày lễ lớn; quan tâm công tác giáo dục; tháo gỡ vướng mắc trong mua sắm thuốc, vật tư y tế và phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Thể thao thành tích cao đạt nhiều kết quả nổi bật.
Thứ bảy, công tác cải cách thủ tục hành chính; sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế được đẩy mạnh; tích cực triển khai Đề án 06. Đã cắt giảm, đơn giản hoá 2.189 quy định kinh doanh; 68,8% thủ tục hành chính được cung cấp trực tuyến. Chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương; rà soát, sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, triển khai Đề án 06…
Cùng với đó, tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được tăng cường, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, nhất là đối ngoại cấp cao, ngoại giao kinh tế; uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được củng cố, nâng lên. Thông tin truyền thông được chú trọng, nhất là truyền thông chính sách.
Các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá tích cực về Việt Nam. Đặc biệt, về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2023, Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 2 bậc so với năm 2022; xếp hạng môi trường kinh doanh tăng 12 bậc; xếp hạng giá trị thương hiệu quốc gia tăng 01 bậc, xếp thứ 32/100 với trị giá 431 tỷ USD, có mức tăng trưởng nhanh nhất thế giới tính từ năm 2019 đến nay (74%).
Phát biểu tại Hội nghị, Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho rằng, trong bối cảnh hết sức khó khăn, tăng trưởng kinh tế tăng cao dần qua các quý, trong khi lạm phát bình quân ở mức 3,16%. Đây là những kết quả đáng ghi nhận khi so sánh với các nền kinh tế trên thế giới và khu vực. Diễn biến này cho thấy các giải pháp điều hành thời gian qua của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là đúng và trúng.
Về diễn biến thị trường tiền tệ và điều hành của NHNN, Thống đốc nhấn mạnh điều hành CSTT trong điều kiện khó khăn, thách thức do kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Các NHTW trên thế giới tiếp tục duy trì CSTT thắt chặt, duy trì lãi suất cao. Chỉ số USD tăng cao trở lại 106, mức cao nhất từ đầu năm tới nay. Trong nước, dù lạm phát bình quân 9 tháng ở mức 3,16% nhưng đang tăng lên qua các tháng (tháng 7 tăng 0,45%; tháng 8 tăng 0,88%; tháng 9 tăng 1,08%), lạm phát cơ bản giảm chậm, bình quân 9 tháng đầu năm tăng 4,49%; nhiều khả năng kiểm soát đươc lạm phát theo mục tiêu Quốc hội đề ra. Tuy nhiên trong điều hành kinh tế vĩ mô, theo Thống đốc cần có cái nhìn xuyên suốt, không chỉ nhìn vào mục tiêu một năm, mà cần nhìn vào xu hướng, những rủi ro trong thời gian tới để chủ động điều hành, tránh để lạm phát bùng lên, mất thời gian dài để đưa lạm phát giảm trở lại, gây hệ lụy tiêu cực đối với nền kinh tế.
Trong thời gian qua, NHNN đã bám rất sát tình hình, chủ động điều hành với liều lượng và thời điểm hợp lý. Trước yêu cầu giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, trong khi đó gần đây chỉ số USD tăng trở lại mức 106 nên có thời điểm tỷ giá đã tăng 3,7% so với đầu năm. Tuy nhiên, với việc điều tiết tiền tệ thông qua các công cụ, giải pháp thị trường tiền tệ, tỷ giá hiện nay còn tăng 3% so với đầu năm. Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục theo dõi sát tình hình, diễn biến để chủ động điều hành phù hợp.
Về tín dụng, đến ngày 21/9 tín dụng tăng 5,91%, với tín hiệu phục hồi của sản xuất, kinh doanh, và thường những tháng cuối năm tín dụng tăng cao, tín dụng sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới. Đối với gói tín dụng 120.000 tỷ đồng, đây là gói tín dụng từ nguồn vốn và hỗ trợ lãi suất của các NHTM để góp phần thực hiện mục tiêu 1 triệu căn hộ trong 10 năm tới. Đến thời điểm này đã có 40 dự án được công bố, tổng nhu cầu khoảng 16.000 tỷ đồng và các ngân hàng đã giải ngân khoảng gần 90 tỷ đồng. "Nếu kỳ tháng 10 này, Quốc hội phê chuẩn Luật kinh doanh bất động sản và Luật Nhà ở, theo đó cho phép doanh nghiệp được mua nhà ở cho công nhân thì khả năng nhu cầu vay vốn từ gói này sẽ tăng lên", Thống đốc bày tỏ kỳ vọng và cho biết thêm, đối với gói tín dụng thủy sản 15.000 tỷ đồng, triển khai từ giữa tháng 7 đến nay đã đạt khoảng 5.500 tỷ đồng, chiếm 1/3 giá trị gói tín dụng. Điều này cho thấy việc triển khai của ngân hàng khá tích cực.
Đối với các nhiệm vụ khác, trong đó có thực hiện đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, hoàn thiện các đề án tái cơ cấu ngân hàng yếu kém được NHNN tiếp tục chỉ đạo thực hiện theo đúng chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Tại Hội nghị, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng nêu một số kiến nghị để tăng khả năng hấp thụ vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bền vững. Thống đốc cho rằng, lạm phát có xu hướng tăng liên tục trong 3 tháng qua, cùng với rủi ro về giá dầu, giá lương thực, tăng lương trong năm 2024 là những yếu tố cần được theo dõi sát, đánh giá kỹ lưỡng, đặc biệt là chính sách quản lý giá (tính toán mức độ, thời điểm phù hợp, lưu ý tác động vòng 2). Do vậy, cần có các giải pháp chính sách tổng thể, hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô một cách bền vững, xuyên suốt.
Hiện nay tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế vẫn còn thấp, có nhiều nguyên nhân đã được chỉ ra ở nhiều hội nghị do lãnh đạo Chính phủ chủ trì như đơn hàng giảm, doanh nghiệp không có đầu ra, cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại quốc tế, khai thác cầu nội địa; vướng mắc thủ tục pháp lý về đầu tư, đặc biệt là các dự án bất động sản, cần tập trung tháo gỡ. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện chiếm tới khoảng 95% tổng số doanh nghiệp của cả nước, trong điều kiện bình thường cũng khó khăn về năng lực tài chính, nay chịu tác động của Dịch Covid 19 lại càng khó khăn hơn. "Các ngân hàng dù rất tạo điều kiện nhưng tiền cho vay của hệ thống các TCTD là tiền gửi của người dân, nên đòi hỏi đảm bảo cho vay có khả năng thu hồi nợ theo quy định của Luật TCTD", Thống đốc bày tỏ và đề xuất để cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có các giải pháp đồng bộ như tăng cường bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp.
Phát biểu Kết luận phiên họp Chính phủ thường kỳ và Hội nghị Chính phủ với các địa phương,Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản thống nhất với các báo cáo và ý kiến tại phiên họp, ghi nhận, biểu dương nỗ lực, kết quả của các bộ, ngành, địa phương, đóng góp vào thành tựu chung của cả nước.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả rất cơ bản đạt được, Thủ tướng dành thời gian phân tích về những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức nổi lên, nguyên nhân của kết quả đạt được, của hạn chế, yếu kém và các bài học kinh nghiệm.
Thủ tướng nhấn mạnh cần thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng, tăng tốc phát triển sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến chế tạo, nỗ lực phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2023, tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai thực hiện kế hoạch năm 2024 và tiến tới hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra cho cả nhiệm kỳ.
PV (Ảnh: Nhật Bắc)
Theo sbv.gov.vn