Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2023 tiếp tục duy trì ổn định, phát triển với nhiều điểm sáng
Thông tin tại họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 7, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn cho biết: Trong điều kiện rất nhiều khó khăn, song nhờ có sự lãnh đạo của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành khoa học, quyết liệt, chủ động và linh hoạt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc, phối hợp đồng bộ của các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự đồng tình, ủng hộ của người dân, doanh nghiệp, đối tác quốc tế, tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2023 tiếp tục duy trì ổn định, phát triển với nhiều điểm sáng; tháng 7 tốt hơn so tháng 6 và cùng kỳ trên nhiều lĩnh vực.
Nổi bật là kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Lạm phát tiếp tục xu hướng giảm dần trong khi lạm phát ở nhiều nước tiếp tục neo ở mức cao; chỉ số CPI bình quân 7 tháng tăng 3,12% (so với bình quân 6 tháng 3,29%; 5 tháng 3,55%; 4 tháng 3,84%; 3 tháng 4,18%; 2 tháng tăng 4,6% và tháng 1 là 4,89%).
Xuất nhập khẩu tiếp tục đà tăng trở lại. Trong tháng 7, xuất khẩu tăng 2,1% so với tháng trước; nhập khẩu tăng 2,4%; xuất siêu 3 tỷ USD. Tính chung 7 tháng xuất khẩu đạt 195,4 tỷ USD, nhập khẩu đạt 178,9 tỷ USD; xuất siêu 16,5 tỷ USD.
An ninh năng lượng, lương thực được bảo đảm. Trong 7 tháng đầu năm, sản xuất hơn 24,1 triệu tấn lúa, bảo đảm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trên 4,83 triệu tấn gạo với kim ngạch 2,6 tỷ USD, tăng 18,7% về lượng và tăng 29,6% về trị giá. Ước tính cả năm đạt khoảng 43,1 triệu tấn lúa, tăng 452.000 tấn so với cùng kỳ, xuất khẩu 7,5 triệu tấn gạo.
Các ngành, lĩnh vực chủ yếu phục hồi tốt. Nông nghiệp tiếp tục có nhiều điểm sáng, là điểm tựa vững chắc của nền kinh tế. Chăn nuôi ổn định. Sản lượng thủy sản tháng 7 tăng 2,6%, 7 tháng tăng 1,9%. Xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 7 đạt 4,62 tỷ USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ, 7 tháng đạt hơn 29 tỷ USD. Riêng rau củ quả đã xuất khẩu 3,2 tỷ USD.
Vốn đầu tư đạt kết quả tích cực. Giải ngân vốn đầu tư công 7 tháng đạt 267,63 nghìn tỷ đồng, đạt 37,85% kế hoạch, tăng 3,38% về tỷ lệ và tăng 80,78 nghìn tỷ đồng về số tuyệt đối. Tổng vốn FDI đăng ký tháng 7 đạt trên 2,8 tỷ USD, tăng gần 9% so với tháng trước, 7 tháng đạt gần 16,24 tỷ USD, tăng 4,5%; Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế.
Công nghiệp tiếp đà phục hồi. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 7 tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 3,7% so cùng kỳ, trong đó chế biến chế tạo tăng 3,6%.
Thương mại, dịch vụ tiếp tục tăng khá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 7 tăng 1,1% so tháng trước và tăng 7,1% so cùng kỳ; 7 tháng tăng 10,4%. Khách quốc tế tháng 7 đạt hơn 1 triệu lượt người (tháng có lượng khách quốc tế lớn nhất từ sau mở cửa), tăng 6,5% so tháng trước và gấp gần 3 lần so cùng kỳ; 7 tháng đạt gần 6,6 triệu lượt, gấp 6,9 lần so cùng kỳ.
Tính chung 7 tháng có 131.900 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 113.300.
Khó khăn, thách thức phải đối mặt
Bên cạnh những kết quả đạt được, các thành viên Chính phủ cũng thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, khó khăn, thách thức phải đối mặt, xử lý, trong đó nổi lên là:
(1) Ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm phát có xu hướng giảm nhưng vẫn chịu nhiều sức ép;
(2) Thu NSNN 7 tháng giảm so cùng kỳ; tỉ lệ nợ xấu nội bảng cao, hấp thụ vốn yếu, tiếp cận vốn còn khó khăn; tăng trưởng tín dụng thấp;
(3) Điều hành chính sách tiền tệ khó khăn trong bối cảnh nhiều nước tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ;
(4) Khu vực doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn, nhất là về khả năng tiếp cận vốn, đơn hàng sụt giảm;
(5) Cầu trên các thị trường lớn, truyền thống suy giảm;
(6) Công nghiệp tiếp tục phục hồi nhưng chậm;
(7) Đời sống một bộ phận người dân khó khăn;
(8) Biến đổi khí hậu, thiên tai, nhất là sạt lở đất tiếp tục diễn biến phức tạp;
(9) An ninh, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ...
Giải pháp và các mục tiêu trọng tâm
Sau khi phân tích tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là: Kiên định kiên trì, tập trung thực hiện mục tiêu tổng quát theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ. Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo các cân đối lớn, kiểm soát nợ công, nợ Chính phủ, bội chi. Đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh hơn nữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển; đẩy mạnh công tác đối ngoại.
Trên cơ sở đó, Thủ tướng đưa ra trọng tâm chỉ đạo điều hành là ưu tiên tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo sinh kế cho người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao đời sống tinh thần vật chất của người dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đẩy mạnh công tác đối ngoại. Trong đó lưu ý:
Thứ nhất, đảm bảo và cân bằng, hài hòa, hợp lý giữa lãi suất và tỉ giá.
Thứ hai, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, nhất là 3 động lực tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu.
Thứ ba, chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, tiếp tục có những giải pháp phù hợp, hạ lãi suất, nhất là lãi suất cho vay, cơ cấu lại nợ, giãn hoãn nợ, tăng tín dụng và tăng cung tiền phù hợp.
Thứ tư, chính sách tài khóa mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm, tiếp tục giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, đẩy nhanh hoàn thuế, đầu tư công.
Thứ năm, đảm bảo an ninh tiền tệ, tài chính quốc gia.
Thứ sáu, rút ngắn quy trình, thủ tục, xây dựng thể chế cũng như các văn bản quy định pháp luật.
Minh Ngọc