Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu
Góp ý hoàn thiện dự thảo luật, đại biểu Phạm Đức Ấn (TP. Hà Nội), Chủ tịch HĐTV Agribank, Chủ tịch Hội đồng Hiệp hội Ngân hàng cho biết, liên quan đến Chương XII về xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo, hiện nay không còn quy định về thủ tục thu giữ tài sản đảm bảo như Điều 184 dự thảo luật trình kỳ họp thứ 6.
Vấn đề này theo đại biểu, Báo cáo của Chính phủ số 2004 ngày 23/5/2022 tổng kết Nghị quyết 42 về đề xuất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ Nghị quyết 42, trong đó có nói Nghị quyết số 42 là chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng, Quốc hội, Chính phủ giúp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn. Do đó, việc duy trì cơ chế, chính sách tại Nghị quyết 42 và tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu là cần thiết.
Trong Báo cáo số 906 của của Ủy ban Kinh tế ngày 20/5/2022 cũng đề cập là quan trọng hơn, cùng với ngành Ngân hàng, các bộ, ngành, cơ quan liên quan đã vào cuộc để thúc đẩy mạnh mẽ hơn công tác xử lý nợ xấu, tạo sự thay đổi đáng kể về nhận thức, trách nhiệm của các bên liên quan từ khi nghị quyết có hiệu lực.
Cũng tại báo cáo này đã đưa ra số liệu thống kê trong giai đoạn Nghị quyết 42 có hiệu lực, khả năng thu hồi nợ xấu tăng lên ở mức 5,67 nghìn tỷ đồng trong một tháng, so với 2,15 nghìn tỷ đồng một tháng trong giai đoạn trước đó. Ngoài ra, tỷ trọng xử lý nợ xấu qua hình thức khách hàng tự nguyện trả nợ là tăng từ 23% lên 38%.
Đại biểu Phạm Đức Ấn cho rằng, các giải pháp, đặc biệt là giải pháp được giao cho TCTD có sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu giữ tài sản để xử lý đã là một biện pháp mạnh mẽ cần thiết để hỗ trợ cho TCTD, như vậy cần phải xem xét. Bởi vì, thu hồi này không phải tạo ra một đặc quyền, đặc lợi gì cho TCTD mà việc thu giữ theo nghị quyết vừa qua là để đảm bảo quyền lợi chung mang tính xã hội nhiều hơn, vì nếu thu hồi được nợ xấu có nghĩa là có tiền để cho vay những khách hàng khác có nhu cầu.
Ngoài ra, nếu thu hồi được nợ xấu có nghĩa là lợi nhuận của TCTD thu nhập được tăng lên, cũng là cơ sở để TCTD có thể giảm lãi suất cho vay đối với các đơn vị khác, vì vậy tính xã hội rất cao.
“Trong thời gian thực hiện Nghị quyết 42 chưa có một trường hợp nào nói TCTD lạm dụng quy định này gây ra vấn đề gì về mặt xã hội và trong báo cáo thì điều này chúng tôi thấy là hoàn toàn phù hợp, vì vậy rất mong muốn điều khoản này nên lấy lại theo dự thảo đã trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 6 vừa qua”, đại biểu Phạm Đức Ấn đề nghị.
Thảo luận tại Hội trường, đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy (Tây Ninh) bày tỏ thống nhất với chủ trương luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu được quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và tháo gỡ được một số vướng mắc khi áp dụng Nghị quyết này.
Theo đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy, khi các quy định này được ban hành thì việc xử lý nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng đã có nhiều tiến bộ, tiến triển tích cực, đảm bảo được phần nào quyền lợi của các bên, thúc đẩy sự chủ động, thanh toán của khách hàng. Bên cạnh đó, các quy định về xử lý nợ xấu đã giảm thiểu được tình trạng cố tình chây ỳ không hợp tác của khách hàng.
Đại biểu cho rằng, nợ xấu của các ngân hàng không phải là vấn đề thời điểm mà là thường trực và gần như gắn liền với quá trình hoạt động của ngân hàng. Việc luật hóa các quy định về nợ xấu, về quyền thu giữ tài sản, về quyền ưu tiên thanh toán… sẽ là nền tảng quan trọng để xử lý hiệu quả các khoản nợ xấu, tạo nên một thị trường mua bán nợ đúng nghĩa. Hiện dự thảo Luật đã quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong từng điều khoản tạo ra hành lang vững chắc cho chính các nhân sự tại cơ quan này khi hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ.
Tuy nhiên, đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy cũng kiến nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu thêm về hoàn thiện các quy định của dự thảo Luật hoặc các văn bản dưới luật về các vấn đề mà hiện nay dư luận rất quan tâm như: quy định pháp luật về tố tụng phải được chỉnh sửa theo hướng rút gọn hơn thời gian xử lý các thủ tục hành chính về điều kiện khoanh nợ, khoản nợ đủ điều kiện thu giữ; đồng thời, đề xuất bỏ nội dung giới hạn là món nợ đang không bị tranh chấp được tòa án thụ lý để tránh trường hợp khách hàng lợi dụng quy định này tạo ra các tranh chấp giả dẫn đến trì hoãn và ngăn cản quá trình thu giữ tài sản đảm bảo để xử lý.
Đánh giá cao sự tiếp thu, chỉnh sửa dự thảo Luật Các TCTD để đưa ra Quốc hội thảo luận tại kỳ họp này, đại biểu Nguyễn Việt Hà (Tuyên Quang) cho rằng, việc thông qua dự thảo luật tại kỳ họp này là cần thiết. Để góp phần hoàn thiện thêm dự thảo luật, đại biểu tham gia ý kiến đối với Chương XII quy định xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm.
Việc dự thảo luật lần này đã bỏ quy định về thu giữ tài sản bảo đảm, kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án, hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, vụ việc vi phạm hành chính, do đó, đại biểu đề nghị được giữ nguyên nội dung này như dự thảo tại kỳ họp thứ 6 và kỳ họp trước. Sự cần thiết và phù hợp của Nghị quyết 42, trong đó có các nội dung trên đã được báo cáo và đánh giá trước Quốc hội và Quốc hội đã cho phép kéo dài Nghị quyết 42 đến hết năm 2023, những nội dung như đại biểu Phạm Đức Ấn đã trình bày.
Tại Nghị quyết 42, những quy định trên là những nội dung cốt lõi, trọng yếu trong việc xử lý nợ xấu của các TCTD nhằm đảm bảo công tác xử lý nợ xấu, có cơ sở pháp lý để triển khai hiệu quả trên thực tế. "Việc thu giữ tài sản bảo đảm quy định như dự thảo tại kỳ họp thứ 6 là phù hợp với quy định pháp luật trong việc bảo đảm nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong giao dịch dân sự", đại biểu Nguyễn Việt Hà nêu quan điểm.
Thực tế cho thấy, việc triển khai những nội dung của Nghị quyết 42 đã giúp cho ý thức trả nợ của khách hàng được nâng cao, hạn chế tốt việc khách hàng chây ì trả nợ, giúp công tác xử lý nợ xấu được hiệu quả và giảm thực chất.
“Việc xây dựng các quy phạm pháp luật để xử lý nợ xấu như Chương XII hiện nay thiếu các quy định pháp luật để các TCTD xử lý nợ xấu. Dự thảo chủ yếu quy định các quy phạm về mua, bán nợ xấu mà thiếu các quy định pháp lý để các TCTD xử lý nợ xấu theo quan hệ dân sự riêng giữa TCTD và khách hàng, trong khi đây là phương thức xử lý nợ xấu mà các TCTD thực hiện chủ yếu hiện nay. Do vậy, tôi đề nghị giữ nguyên nội dung này giống như dự thảo tại kỳ họp thứ 6 để giúp cho công tác nợ xấu được hiệu quả và đảm bảo tính pháp lý”, đại biểu Nguyễn Việt Hà phát biểu.
Không nên quy định can thiệp sớm là một giai đoạn xử lý
Một trong những nội dung của dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5 được các đại biểu quan tâm là áp dụng can thiệp sớm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Điều 156). Đại biểu Lã Thanh Tân (Hải Phòng) bày tỏ tán thành với dự thảo Luật được trình tại Kỳ họp này.
Tuy nhiên, liên quan đến quy định được chỉnh lý tại khoản 1 và khoản 2 Điều 161 dự thảo Luật bổ sung thêm quy định Ngân hàng Nhà nước phải có văn bản quyết định chấm dứt can thiệp sớm, theo đại biểu Lã Thanh Tân, quyết định này làm thay đổi bản chất can thiệp, sớm chuyển can thiệp sớm từ cơ chế can thiệp từ sớm, từ xa của cơ quan quản lý sang một trạng thái xử lý cụ thể.
Đại biểu Lã Thanh Tân phân tích, với cơ chế can thiệp từ sớm thì khi phát hiện các tổ chức tín dụng thuộc trường hợp can thiệp sớm, Ngân hàng Nhà nước có văn bản gửi tổ chức tín dụng thực hiện các yêu cầu hạn chế để khắc phục các vấn đề trong hoạt động để tổ chức tín dụng đó quay trở lại hoạt động bình thường. Đây không phải là văn bản quyết định đặt tổ chức tín dụng vào can thiệp sớm.
Trong văn bản của Ngân hàng Nhà nước nêu rõ các yêu cầu hạn chế cùng với thời hạn thực hiện các yêu cầu hạn chế đó. Các yêu cầu hạn chế của Ngân hàng Nhà nước sẽ chấm dứt khi hết thời hạn thực hiện mà các tổ chức tín dụng đã khắc phục được là vấn đề của mình. Với cách tiếp cận này, Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng yêu cầu hạn chế hoặc không còn áp dụng yêu cầu hạn chế đối với tổ chức tín dụng được can thiệp sớm mà không có văn bản quyết định can thiệp sớm nên cũng không cần có văn bản quyết định chấm dứt can thiệp sớm .
Theo dự thảo Luật trình tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Ngân hàng Nhà nước phải có văn bản quyết định can thiệp sớm và sau đó là văn bản quyết định chấm dứt can thiệp sớm. Đây sẽ là thông tin bất lợi đối với tổ chức tín dụng có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường, ảnh hưởng tới tâm lý người gửi tiền, tạo rủi ro nguy cơ rút tiền hàng loạt đối với chính tổ chức tín dụng được can thiệp sớm nói riêng và hệ thống tổ chức tín dụng nói chung. Pháp luật các nước cũng không quy định can thiệp sớm là một giai đoạn xử lý mà quy định theo hướng can thiệp sớm là các cơ chế cho phép cơ quan quản lý áp dụng đối với một tổ chức tín dụng gặp vấn đề.
Đại biểu Lã Thanh Tân cũng đưa ra dẫn chứng về thông lệ quốc tế: nguyên tắc cốt lõi để giám sát ngân hàng hiệu quả của Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (Ngân hàng Thanh toán quốc tế BIS) cho rằng, giám sát thông qua can thiệp sớm có thể ngăn chặn sự yếu kém của một ngân hàng khỏi việc phát triển sự yếu kém đó thành một mối đe dọa tới sự an toàn và lành mạnh.
Theo đó, khi một ngân hàng không tuân thủ với các yêu cầu của luật hoặc các quy định gây nguy hiểm đến hoạt động của ngân hàng, cơ quan giám sát có thẩm quyền can thiệp ở giai đoạn sớm, yêu cầu ngân hàng thực hiện hành động khắc phục một cách kịp thời để xử lý các hoạt động không an toàn và lành mạnh. Như vậy, theo quan điểm của BIS, can thiệp sớm là một cơ chế cho phép cơ quan quản lý yêu cầu tổ chức tín dụng khắc phục.
“Từ những lý do trên, tôi đề nghị giữ nguyên quy định về can thiệp sớm như dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 hoặc bỏ quy định Ngân hàng Nhà nước phải có văn bản quyết định chấm dứt can thiệp sớm tại Điều 161 của dự thảo luật. Điều này sẽ phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, tránh trường hợp thị trường có phản ứng tiêu cực khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp can thiệp sớm đối với một tổ chức tín dụng”, đại biểu Lã Thanh Tân đề xuất.
Cùng chung quan điểm, đại biểu Phạm Đức Ấn nêu rõ bản chất của từ “can thiệp sớm” đã thể hiện rằng đó là việc Ngân hàng Nhà nước làm trước một giai đoạn nào đó mang tính chất bắt buộc về mặt hành chính. Theo đại biểu, để đảm bảo đưa về hoạt động bình thường thì không nên nặng nề câu chuyện phải ra quyết định rồi rút quyết định đó. Bởi vì, hết can thiệp sớm, nếu trở lại hoạt động bình thường thì có thể coi như chuyện không có gì xảy ra. Nếu trong trường hợp can thiệp sớm mà doanh nghiệp, tổ chức tín dụng vẫn rủi ro hơn thì sẽ chuyển sang hình thức kiểm soát đặc biệt. Khi đó mới cần một quyết định chính thức, đại biểu nêu rõ.
Minh Đức