Thống đốc cho biết, với thực trạng nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vốn của hệ thống ngân hàng, nếu chúng ta không kiểm soát, để mỗi TCTD tăng trưởng tín dụng đến vài chục phần trăm như những năm trước đây thì cũng tiềm ẩn những rủi ro. Khi phân khúc của thị trường tài chính đáp ứng nhu cầu về trung, dài hạn như
trái phiếu doanh nghiệp, cổ phần,
cổ phiếu… chưa giải quyết được vấn đề về vốn dài hạn, thì việc bỏ hạn mức tín dụng là chưa thực hiện được.
Thống đốc cũng nêu rõ, thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã linh hoạt hơn trong các giải pháp đáp ứng nhu cầu tín dụng như: Cấp hạn mức tín dụng theo đánh giá, xếp loại của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng - NHNN; cân nhắc đối với những mục tiêu ưu tiên của Chính phủ trong từng giai đoạn (nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, bất động sản…). Đến cuối năm 2023, NHNN đã thực hiện thông báo tăng trưởng tín dụng của cả năm 2024 cho tất cả các TCTD với chỉ tiêu định hướng khoảng 15%.
Theo Thống đốc, năm 2024, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng 15%, tuy nhiên cần theo dõi diễn biến để có thể điều chỉnh tăng giảm tùy theo tình hình thực tế. Tăng trưởng tín dụng sẽ thường tăng cao trong hai tháng cuối năm. Do đó, khả năng đạt được chỉ tiêu này cũng khả thi cao. Riêng về nợ xấu, nếu nguyên nhân nợ xấu là do yếu tố khách quan thì NHNN cũng khó kiểm soát. Đối với các TCTD, NHNN đã chỉ đạo tăng cường nhiều biện pháp kiểm soát nợ xấu bằng cách thẩm định kỹ các khoản vay, đối tượng vay, thận trọng, cân đối nguồn vốn.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội về dư nợ tín dụng đối với bất động sản khoảng 20 - 21% tổng dư nợ của nền kinh tế, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, các TCTD cấp tín dụng vào lĩnh vực nào và tỉ lệ là bao nhiêu, hoàn toàn phụ thuộc vào sự quyết định của TCTD, tùy thuộc vào nguồn vốn của họ huy động. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, 80% tiền gửi ở Việt Nam là ngắn hạn trong khi đó tín dụng bất động sản chủ yếu là kỳ hạn dài. Vì vậy, các ngân hàng khi cho vay phải dựa trên khả năng cân đối vốn của mình, bảo đảm nguyên tắc an toàn, khi người dân rút tiền thì các ngân hàng có khả năng chi trả. NHNN không có quy định cấm cho vay bất động sản.
Về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, Thống đốc cho biết, thực trạng thị trường bất động sản hiện nay đang mất cân đối cung - cầu về các phân khúc, nhất là đối với phân khúc người thu nhập thấp, nguồn cung cho phân khúc này chưa được tập trung phát triển mạnh. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt và ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững.
Theo đó, NHNN đã có giải pháp tích cực rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để đưa ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp gặp khó khăn không trả được nợ. NHNN đã ban hành các thông tư để cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, qua đó, góp phần giúp các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản tiếp cận nguồn vốn vay mới. Đồng thời, NHNN cũng chỉ đạo các TCTD giảm và miễn lãi các dự án, trong đó có các dự án bất động sản. Về việc các TCTD mua trái phiếu doanh nghiệp, NHNN đã sửa đổi theo hướng bảo đảm thuận lợi hơn đối với lĩnh vực thị trường bất động sản.
Liên quan đến nguồn lực đối với nhà ở cho người thu nhập thấp, Thống đốc khẳng định lại, nguồn lực chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. NHNN đã đề xuất gói 120 nghìn tỉ đồng và sẽ tích cực triển khai trong thời gian tới. Đối với những đối tượng thuộc nhóm cho vay hỗ trợ nhà ở, đất ở của các chương trình mục tiêu quốc gia, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN đã chủ trì tham mưu ban hành các nghị định liên quan và khi được bố trí nguồn lực thì sẽ có những giải pháp hỗ trợ nhằm triển khai thực hiện Chương trình.
Liên quan đến tín dụng cho giao thông, BOT, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường giao thông, đường cao tốc là lĩnh vực mà Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm. “Chỉ trong một thời gian ngắn, số lượng km đường xây dựng so với thời gian trước đã tăng lên rất nhanh và nhiệm vụ cho giai đoạn tới đến năm 2030 để có được 5 nghìn km đường cao tốc là mục tiêu rất lớn. Đường cao tốc cần nguồn vốn vay dài hạn. Cho nên đòi hỏi phải đa dạng hóa các nguồn lực từ nhiều kênh”, Thống đốc nêu rõ.
Đối với hệ thống ngân hàng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN đã đánh giá, theo dõi. Trước đây cũng có một số dự án về đường cao tốc, nhiều ngân hàng đã tham gia cho vay vốn, tổng dư nợ khoản cho vay các dự án đường cao tốc này khoảng 100 nghìn tỉ đồng. Tuy nhiên, nợ xấu và nợ nhóm hai của các dự án này đang chiếm tỉ lệ rất cao, khoảng 20%. Và nguyên nhân khác còn do tiền trả nợ làm đường cao tốc thường đến từ nguồn thu phí. Vì vậy, nếu chính sách thu phí đường cao tốc thường xuyên thay đổi hay các phương án tài chính của những dự án xây dựng đường cao tốc thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của các dự án này. Do đó, các TCTD khá thận trọng, còn khuôn khổ pháp lý hiện đã đầy đủ.
Bàn về giải pháp, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, đối với giải pháp về nguồn tín dụng, NHNN đã chỉ đạo các TCTD phải tăng cường cho vay đồng tài trợ đối với những dự án lớn. “Đối với đầu tư cơ sở hạ tầng và liên quan đến chống biến đổi khí hậu, việc huy động nguồn lực từ nước ngoài là cần thiết, đặc biệt đối với các dự án hỗ trợ phát triển chính thức ODA như của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới, quan trọng nhất là chúng ta cân đối vay bao nhiêu để bảo đảm cân đối của nền kinh tế cũng như bảo đảm thủ tục nhanh chóng, thuận tiện. Thời gian qua, Chính phủ đã thành lập Tổ công tác để giải quyết một số khó khăn khi triển khai các dự án này”, Thống đốc nêu rõ.
Về các giải pháp tín dụng để hỗ trợ phát triển cho doanh nghiệp và người dân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, đối với Việt Nam, nhu cầu đặc thù đầu tư cho sản xuất, kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng, chỉ số dư nợ tín dụng/GDP hiện đã chiếm hơn 120% GDP. Do đó, trong tổ chức điều hành về tín dụng, NHNN luôn chú ý, cân nhắc kỹ lưỡng.
Để giải quyết về vốn, liên quan đến giải pháp về tín dụng, Thống đốc cho biết, NHNN đã báo cáo quá trình thực hiện, tham mưu cho Chính phủ để tăng cường vốn cho doanh nghiệp và người dân. Theo đó, hiện có rất nhiều nguồn vốn cho doanh nghiệp và người dân như nguồn vốn tự có, nguồn vốn vay ngân hàng, nguồn vốn thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài, nguồn vốn vay nợ… Do đó, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, bản thân doanh nghiệp và người dân cần cân nhắc tiếp cận các nguồn vốn phù hợp. Khi tiếp cận nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, các tổ chức và cá nhân phải đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn được vay và khách hàng đó phải có khả năng trả nợ, doanh nghiệp và người dân cần có phương án kinh doanh khả thi.
Việt Nam đã giảm lãi suất khá nhiều so với các nước
Về tỉ giá, Thống đốc cho biết, thị trường tiền tệ quốc tế diễn biến phức tạp. Sau thời gian thắt chặt, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã nới lỏng chính sách tiền tệ, nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới cũng hạ lãi suất, điều chỉnh chính sách tiền tệ. Đồng USD biến động phức tạp, khi có thời điểm giảm mạnh, từ quý 3/2024 lại tăng và hiện biến động ở mức cao. Những diễn biến này đã tác động tới thị trường ngoại hối trong nước. "Việc ổn định tỉ giá, ngoại hối là khó khăn do phụ thuộc cung cầu thực trên thị trường, tức lượng ngoại tệ chi ra nền kinh tế và nguồn thu có được", Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nói.
Bên cạnh đó, thị trường ngoại hối còn tồn tại tình trạng đôla hóa, nên chịu tác động tâm lý kỳ vọng lớn. Dù vậy, NHNN kiên định mục tiêu điều hành tỉ giá, ngoại hối linh hoạt, phù hợp tình hình diễn biến thị trường. Hiện tỉ giá được phép dao động +/- 5%. "Khi thị trường biến động quá lớn, NHNN sẽ cân nhắc bán ngoại tệ để ổn định, đáp ứng nhu cầu người dân", Thống đốc thông tin.
Đối với việc giảm lãi suất, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, để ổn định tỉ giá mà giảm lãi suất sẽ tác động đến tỉ giá, vì vậy, thời gian qua NHNN phải cân bằng, thực hiện mục tiêu giảm lãi suất để hỗ trợ cho doanh nghiệp của người dân, nhưng nếu giảm lãi suất quá nhiều sẽ tác động làm tăng tỉ giá, có thể tạo tâm lý không yên tâm đối với nhà đầu tư nước ngoài nếu tỉ giá không ổn định.
“Việc có tiếp tục giảm lãi suất hay không phụ thuộc vào diễn biến kinh tế trong nước và thế giới, thanh khoản, tình trạng hệ thống ngân hàng. Thời gian vừa qua, chúng ta đã giảm mặt bằng lãi suất khá nhiều so với các nước, cho nên chúng tôi tiếp tục theo dõi", Thống đốc cho biết.
Liên quan đến cơ chế điều hành dự trữ ngoại hối quốc gia, theo Thống đốc, có nguyên tắc điều hành dự trữ ngoại hối là: An toàn, thanh khoản và sinh lãi. Hiện nay, NHNN thực hiện dự trữ ngoại hối theo hướng an toàn, thanh khoản là chủ yếu. Còn sinh lãi sẽ tính toán sao cho đầu tư ngoại hối có lợi nhất cho đất nước.
Đối với chính sách tiền gửi 0% với USD, Thống đốc cho biết, trước đây tỉ giá của Việt Nam biến động rất mạnh do người nắm giữ USD thì không bán, người chưa có nhu cầu lại tăng mua, cầu ngoại tệ tăng mạnh khiến tỉ giá tăng cao, gây bất ổn vĩ mô. Từ năm 2016, NHNN áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ để ổn định tỉ giá, trong đó có việc áp dụng chính sách lãi suất tiền gửi 0% với USD. Chính sách này (cùng với cơ chế tỉ giá trung tâm) đã làm giảm tâm lý găm giữ ngoại tệ, khiến người dân và doanh nghiệp tăng cường bán USD cho ngân hàng, giúp NHNN tăng mạnh dự trữ ngoại hối quốc gia.
Theo Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng, dù đôla hóa nền kinh tế đã giảm song vẫn còn, nếu NHNN tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ thì tâm lý găm giữ ngoại tệ lại tăng lên, rủi ro thị trường lại tăng trở lại. Bên cạnh đó, việc vay nợ nước ngoài là không thể tránh, nền kinh tế vẫn cần vay nợ để bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội.
Sẵn sàng thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân sau cơn bão số 3
Về giải pháp của ngành Ngân hàng hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân chịu tác động của cơn bão số 3, đặc biệt là khách hàng và người dân trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, sau khi cơn bão số 3 xảy ra và gây thiệt hại nghiêm trọng với doanh nghiệp và người dân ở 26 tỉnh, thành phố, Lãnh đạo NHNN trực tiếp đi khảo sát ở tỉnh Hải Phòng và Quảng Ninh là hai tỉnh chịu sự tác động tiêu cực của cơn bão số 3 và xác định dư nợ của hai tỉnh này chịu tác động của cơn bão số 3 là khoảng 12 nghìn tỉ đồng.
NHNN đã chỉ đạo các TCTD tập trung quan tâm, rà soát các khách hàng vay vốn tại tổ chức mình để xác định mức độ thiệt hại các khoản dư nợ mà khách hàng và người dân đã vay tại ngân hàng. Theo đó, số dư nợ tín dụng của các khách hàng cá nhân bị thiệt hại khoảng 190 nghìn tỉ đồng. Trên cơ sở đó, NHNN đã chỉ đạo các TCTD: Tập trung thực hiện các giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân như cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo các quy định hiện hành; xem xét giảm lãi cho doanh nghiệp và người dân chịu tác động của cơn bão số 3.
Bên cạnh đó, mỗi TCTD cũng cân nhắc, xem xét cân đối nguồn vốn của TCTD để đưa ra các gói tín dụng phù hợp. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, đến nay đã có 35 TCTD công bố với tổng giá trị gói tín dụng là 405 nghìn tỉ đồng để tiếp tục cho vay mới đối với doanh nghiệp và người dân chịu tác động cũng như các khoản lãi suất cho vay ưu đãi hơn.
Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội về thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao cho NHNN tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3 (Yagi), nhanh chóng ổn định tình hình Nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát, trong đó trình Chính phủ về phân loại tài sản có rủi ro khi thực hiện các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho doanh nghiệp và người dân chịu tác động của bão lũ, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, ngay sau khi Nghị quyết số 143/NQ-CP được ban hành, NHNN đã dự thảo các thông tư hướng dẫn và xin ý kiến theo quy trình.
Xác định đây là một sự cố cấp thiết nên NHNN cũng trình các cấp có thẩm quyền để xin ban hành theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, theo quy định, phần quyết định về phân loại trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Vì vậy, đồng thời với xây dựng dự thảo thông tư, NHNN cũng trình Thủ tướng Chính phủ quyết định để sớm triển khai trong thực tiễn.
Còn việc TCTD cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão lũ khi không còn tài sản bảo đảm hoàn toàn thuộc quyền quyết định của các TCTD. Trên cơ sở TCTD làm việc với khách hàng cung cấp đầy đủ thông tin. Do đó, Thống đốc NHNN mong muốn UBND các cấp phối hợp chặt chẽ để kết nối giữa ngân hàng, doanh nghiệp và người dân để có thêm thông tin cho các TCTD quyết định trong các trường hợp này.
Trường hợp cho vay đối với khách hàng sản xuất, kinh doanh có rủi ro về nợ xấu, Thống đốc cho biết, các TCTD bằng những biện pháp sẽ xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật hiện hành. Việc các TCTD đưa ra những gói hỗ trợ cho thấy hệ thống ngân hàng sẵn sàng thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân sau đợt bão lũ vừa qua.
Để hoạt động tín dụng gắn với mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh
Theo Thống đốc, Việt Nam là nước chịu tác động lớn bởi biến đổi khí hậu. Vừa qua, tình hình bão lũ thiên tai đặt ra yêu cầu cho các cơ quan, bộ ngành phải tập trung rà soát những giải pháp của Ngành để ứng phó hiệu quả. Ngành Ngân hàng có nhiều giải pháp với vấn đề này, đặc biệt là quan tâm triển khai tín dụng xanh. NHNN đã ban hành các kế hoạch để triển khai và đạt được những kết quả cụ thể.
Về đánh giá rủi ro đối với môi trường trong hoạt động cấp tín dụng, Thống đốc cho hay, khó khăn hiện nay là chưa có danh mục phân loại xanh. Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục phân loại xanh thì ngành Ngân hàng sẽ quyết liệt chỉ đạo để khi các TCTD cấp tín dụng, cho vay thì đánh giá rủi ro để nâng cao dư nợ tín dụng, giúp việc cấp tín dụng gắn với đánh giá tác động môi trường.
Liên quan đến tín dụng xanh, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, bảo vệ môi trường là vấn đề rất quan trọng trong phát triển bền vững và được các nước trên thế giới cũng quan tâm. Đối với Việt Nam, Trung ương, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ cũng đặc biệt quan tâm vấn đề này.
Đối với NHNN, Thống đốc nêu rõ, trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết và kế hoạch triển khai của Chính phủ, NHNN đã ban hành các chỉ thị, văn bản để khuyến khích các TCTD tập trung nguồn lực để cấp tín dụng xanh, triển khai các giải pháp quản lý rủi ro về môi trường khi các TCTD cấp tín dụng, hoàn thiện cơ chế, chính sách góp phần đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh. Thống đốc cũng cho biết, NHNN đã ban hành kế hoạch hành động, giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trong hệ thống, triển khai các chương trình tín dụng đặc thù, góp phần sử dụng
tiết kiệm, hiệu quả tăng trưởng xanh.
Năm 2017, từ chỉ có 5 TCTD tham gia tín dụng xanh, đến nay đã có 50 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ vào khoảng 650 nghìn tỉ đồng, trong đó, tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%. Đặc biệt dư nợ tín dụng mà các TCTD khi cấp tín dụng đánh giá về các rủi ro môi trường đã tăng lên khoảng 3,2 triệu tỉ đồng trong tổng số dư nợ của cả hệ thống là 15 triệu tỉ đồng.
Tuy nhiên, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng chỉ rõ, hiện nay, NHNN cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì hệ thống ngân hàng cần được các cơ quan, bộ ngành liên quan hướng dẫn danh mục phân loại xanh để các TCTD căn cứ để cấp tín dụng. Còn đối với đầu tư vào lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị rất lớn và kỳ hạn dài, đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng rất ngắn hạn.
Do đó, Thống đốc cho hay, thời gian tới NHNN sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện triển khai theo đúng kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phân loại xanh thì NHNN sẽ hướng dẫn các TCTD cấp tín dụng xanh và theo dõi thực hiện, đánh giá rủi ro về môi trường, nếu có vướng mắc phát sinh thì NHNN sẽ tiếp tục chỉnh sửa.
Thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng miếng trong nước quy đổi và giá vàng thế giới
Về thị trường vàng, Thống đốc nêu rõ, thị trường vàng của Việt Nam biến động cũng là diễn biến chung của các nước trên thế giới. Từ năm 2014 đến năm 2019, thị trường vàng Việt Nam tương đối ổn định và nhu cầu mua vàng của người dân giảm. Nhưng từ năm 2021, giá vàng thế giới tăng cao, theo đó, giá vàng trong nước cũng diễn biến tăng cao.
Tuy nhiên, từ năm 2021 đến tháng 6/2024, NHNN cũng chưa can thiệp. Từ tháng 6/2024, giá vàng thế giới lập đỉnh cao, chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước tăng cao. Do đó, Chính phủ và NHNN đã chỉ đạo quyết liệt. Trên cơ sở pháp luật hiện hành, NHNN đã tổ chức đấu thầu. Trong bối cảnh giá vàng lập đỉnh cao và tâm lý kỳ vọng của thị trường cũng rất cao, NHNN tổ chức 9 phiên đấu thầu (đây là giải pháp khá hiệu quả trong năm 2023).
Để thực hiện thu hẹp nhanh khoảng cách giữa giá vàng trong nước và quốc tế ở mức cao theo chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, NHNN đã chuyển sang phương án bán vàng SJC trực tiếp qua 4 ngân hàng thương mại Nhà nước và qua Công ty TNHH MTV Vàng Bạc Đá Quý Sài Gòn - SJC (Công ty SJC). Do đó, khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế từ khoảng 15-18 triệu đồng/lượng đến nay chỉ còn khoảng 3-4 triệu đồng/lượng.
Chỉ rõ diễn biến vàng tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, nước ta không sản xuất vàng nên việc can thiệp tùy thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu vàng quốc tế. Vì vậy, NHNN sẽ theo dõi sát diễn biến của thị trường để đưa ra các chính sách phù hợp để ổn định thị trường vàng.
Liên quan câu hỏi về việc ngân hàng chỉ bán vàng miếng mà không mua vào, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định, việc NHNN bán vàng trực tiếp cho 4 ngân hàng thương mại Nhà nước và Công ty SJC là để tăng cung vàng ra thị trường. Còn các TCTD và các doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh vàng miếng khác trên thị trường vẫn mua vàng bình thường.
Ngoài ra, Thống đốc cho biết, NHNN đã can thiệp, ổn định thị trường vàng với mục tiêu là giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế, phòng tránh các hiện tượng nhập lậu vàng. Hiện nay, giá vàng vẫn tăng giảm, chưa thật sự ổn định do yếu tố khách quan từ tình hình kinh tế thế giới.
Giá vàng còn phụ thuộc nhiều vào các biến số từ thị trường tài chính thế giới, lãi suất, tỉ giá, giá dầu… NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến thị trường, căn cứ vào mục tiêu, chính sách tiền tệ trong thời gian tới để xem xét có giải pháp can thiệp.
Về giải pháp căn cơ, NHNN phối hợp với các bộ, ngành đánh giá tổng kết Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng; tham mưu, đề xuất với Chính phủ về các giải pháp giải quyết vấn đề, tồn tại, hạn chế trong thời gian qua. Về lâu dài, quan điểm chung của NHNN là chống vàng hóa, thực hiện các giải pháp để vàng không phải là mặt hàng hấp dẫn để đầu cơ.
Đối với vàng trang sức mỹ nghệ, hiện NHNN quản lý bằng cách cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất. Còn về việc kinh doanh vàng trang sức mỹ nghệ, đây là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, NHNN đã có một số Thông tư quản lý vấn đề này.
Với câu hỏi của đại biểu Quốc hội về trách nhiệm quản lý thị trường vàng, Thống đốc cho biết, mỗi lĩnh vực, mỗi ngành có cơ quan chủ trì thống nhất quản lý, và có các bộ ngành khác tích cực tham gia. Các nhiệm vụ này đã được quy định rõ trong văn bản quy phạm pháp luật, các bộ, ngành không trùng lắp nhau về trách nhiệm, thẩm quyền. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý thị trường vàng, các bộ, các ngành cần tăng cường phối hợp chặt chẽ. Thời gian qua, NHNN đã nhận được sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Công an. Trước khi NHNN tổ chức can thiệp, ổn định thị trường vàng, NHNN đã họp, mời đại diện của các cơ quan, đặc biệt là Bộ Công an để hỗ trợ, theo dõi quá trình triển khai nhằm tránh các hành vi trục lợi, gian lận trong quá trình can thiệp, ổn định thị trường.
NHNN cũng thực hiện vai trò chủ trì, đầu mối để phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các cơ quan hữu quan để kiểm tra các doanh nghiệp kinh doanh, mua bán vàng miếng, vàng trang sức mỹ nghệ, từ đó kịp thời tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn, quản lý chặt chẽ thị trường này.
Về chất vấn của đại biểu Quốc hội liên quan đến nghiên cứu thành lập sàn giao dịch vàng, Thống đốc cho biết, một số nước trên thế giới có thành lập sàn giao dịch vàng. Việc thành lập sàn giao dịch vàng cũng có mặt tích cực là các giao dịch sẽ minh bạch; nhu cầu mua bán của người dân, doanh nghiệp, các chủ thể thuận lợi hơn. Tuy nhiên, để thành lập sàn giao dịch vàng cũng cần đầu tư về cơ sở hạ tầng; hơn nữa Việt Nam không phải là nước sản xuất vàng. Như vậy, để thành lập sàn giao dịch vàng, đòi hỏi NHNN phối hợp với các bộ, ngành nghiên cứu và đánh giá tác động kỹ lưỡng để tham mưu, đề xuất với Chính phủ ở thời điểm phù hợp và phù hợp với bối cảnh, điều kiện của Việt Nam...
Tất cả kênh cung ứng dịch vụ của hệ thống ngân hàng đều có thể cung cấp trên các kênh số, kênh điện tử
Đối với Chiến lược tài chính quốc gia, NHNN đã được Chính phủ giao nhiệm vụ đầu mối để ban hành Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, trong đó có nhấn mạnh nội dung về các đối tượng yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các đối tượng khó khăn đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Mục tiêu của Chiến lược này là giúp người dân ở khắp mọi miền tổ quốc có khả năng tiếp cận tài chính với chi phí hợp lý.
Triển khai Chiến lược này, NHNN đã ban hành các văn bản chỉ đạo. Trong thực tế, kết quả triển khai tương đối tích cực. Đối với
hoạt động ngân hàng, tất cả kênh cung ứng dịch vụ của hệ thống ngân hàng đều có thể cung cấp trên các kênh số, kênh điện tử, cho phép người dân vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận, sử dụng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ, hoặc tiếp cận các khoản tín dụng từ hệ thống ngân hàng.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội về vấn đề nợ xấu, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian vừa qua, tình hình nợ xấu có xu hướng tăng cao. Theo số liệu của NHNN, tính đến cuối tháng 9/2024, tỉ lệ nợ xấu nội bảng ở mức 4,55% - gần bằng mức cuối năm 2023, tăng so với năm 2022. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đã tác động nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống, xã hội. Doanh nghiệp và người dân khó khăn, giảm nguồn thu dẫn đến việc trả nợ càng khó khăn hơn.
Để kiểm soát nợ xấu, NHNN cũng đề ra một số giải pháp. Theo đó, đối với các TCTD, khi cho vay cần thẩm định, đánh giá kỹ lưỡng về khả năng trả nợ của khách hàng vay, bảo đảm kiểm soát nợ xấu mới phát sinh. Còn đối với các nợ xấu hiện hữu, cần tích cực xử lý nợ xấu thông qua việc đôn đốc khách hàng trả nợ, thu nợ, phát mại tài sản bảo đảm. NHNN cũng đã có khuôn khổ pháp lý đối với các công ty mua bán nợ để có thể tham gia xử lý nợ xấu.
NHNN sẽ thực hiện đồng bộ các biện pháp để tháo gỡ khó khăn, vừa giảm mặt bằng lãi suất cho vay, vừa chỉ đạo các TCTD phải phấn đấu tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp và người dân. Trong giai đoạn nền kinh tế còn khó khăn, hệ thống các TCTD đã dành nguồn lực tài chính của mình để giảm được nhiều lãi suất cho khách hàng.
Về vấn đề lừa đảo trên không gian mạng đối với sàn forex, Thống đốc NHNN cho biết, theo quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam hiện nay thì chỉ có các TCTD được cấp phép kinh doanh ngoại hối, đặc biệt kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế. Khi doanh nghiệp và người dân có những giao dịch cần ngoại tệ thì sẽ giao dịch với các TCTD. Còn các tổ chức và cá nhân khác thì không được kinh doanh ngoại hối. NHNN cũng chưa cấp phép cho một sàn giao dịch nào về vấn đề này. Nếu người dân giao dịch tại các sàn này thì sẽ có hệ lụy là bị lừa đảo. Do đó, các cơ quan quản lý cũng cần phối hợp để kiểm soát, tăng cường phát hiện các sàn không được cấp phép để có biện pháp xử lý.
Hà Trang