Từ ngày còn bé, tôi vẫn theo bà, theo mẹ ra đồng chăm bón rau màu trên cánh đồng ven sông. Trên mặt những luống khoai, luống đỗ, bên rìa những ruộng mạ có một thứ rau lá nhỏ thân mềm mọc lên xanh non dưới mưa phùn gió bấc. Thứ rau ấy có thân màu hơi trăng trắng, lá như lá cải củ nhưng nhỏ xíu, có hoa trăng trắng, đó là rau khúc. Tháng Giêng, tháng Hai Âm lịch, rau khúc vẫn còn xanh non trên cánh đồng. Hoa rau khúc khi già có hạt màu đen. Cuối mùa xuân, hạt rau rụng xuống đất. Cuối mùa đông, hạt rau lại nảy thành cây. Đất quê là nơi cất giữ hạt giống cho rau khúc còn mãi đến muôn đời.
Lần nào ra đồng, bà tôi, mẹ tôi cũng hái đầy rổ rau khúc để mang về làm bánh.
Bánh khúc (hay bánh hú) là một loại bánh của hương đồng gió nội quê tôi. Từ những ngày tháng chạp, khi con cháu đi học xa hay đi làm ăn ở xa về, các bà, các mẹ, các chị thường làm bánh khúc để cúng ông Táo lên giời. Cúng xong, cả nhà quây quần bên chõ bánh khúc vừa ăn vừa hít hà cái mùi thơm ngon của nếp thơm, mùi béo ngậy của mỡ, của đỗ, của hành quyện với mùi đặc trưng của rau khúc.
Thế rồi rằm tháng Giêng và Tết cùng (mồng Một, tháng Hai Âm lịch) nhà nào cũng làm bánh khúc. Bánh khúc là sản vật của một miền quê nghèo khó nhưng tấm lòng thì rất đỗi thảo thơm, trước là để cúng ông bà tổ tiên, sau để biếu anh em xóm giềng và để con cháu cùng ăn.
Rau khúc hái ở ngoài đồng về cấu lấy phần ngọn non, lá non, vứt bỏ rễ, sau đó rửa sạch, chú ý không để dập nát, vẩy khô nước rồi bỏ vào cối giã hoặc nghiền bằng máy. Sau khi giã hoặc nghiền, ta được một loại bột rau và nước rau. Ta nhặt hết xương rau (tức là cuống, cuộng) rồi bỏ bột rau, nước rau vào nhào với bột gạo nếp đã xay nhỏ làm thành một quả bột dẻo nhuyễn. Sau đó ta nặn thành từng nắm nhỏ. Mỗi nắm nhỏ tương đương với một sọ bánh khúc.
Để làm bánh, ta ngâm đỗ xanh đã xay cho tróc vỏ rồi đãi, bung chín nhừ nhưng khô, rồi giã nhuyễn. Mỡ lợn thái nhỏ. Ta trộn đỗ đã giã với mỡ lợn, hạt tiêu, hành, muối vừa đủ (có thể rưới lên một ít mỡ đông). Nặn những nắm bột thành hình chảo, cho nhân vào giữa rồi gói kín bột, nắm tròn. Đấy chính là sọ bánh khúc.
Ta dùng chõ để xôi bánh khúc. Sau khi chuẩn bị nồi đáy, ta đặt chõ lên trên nồi đáy sao cho nồi đáy và chõ khít chặt, có thể dùng lá khoai nước giã nhỏ trát vào vành chõ cho kín. Ta cứ rắc một lượt gạo nếp thơm đã ngâm và vo rồi xếp một lượt sọ. Cứ một lượt gạo, một lượt sọ xếp như thế cho đến khi gần đầy chõ, đậy vung kín. Trên vung, chú ý phủ một lần vải bằng áo cũ xấp nước để giữ nhiệt cho chõ bánh. Đun sôi độ nửa giờ. Khi nào thấy có hơi ở vành miệng chõ và mùi thơm của bánh khúc bay lên là bánh đã chín.
Bánh khúc không ngào ngạt, không thơm váng như nhiều thứ bánh ở nhà hàng, khách sạn. Nhưng, hễ cứ ngửi thấy mùi bánh khúc, dù là lúc nào và đang ở nơi đâu, tôi cũng thấy nôn nao nhớ mẹ, nhớ bà.
Mùa xuân này, bà tôi đã mất từ lâu. Mẹ tôi giờ đã già yếu, đôi tay mẹ gầy guộc nhăn nheo không còn ra đồng hái rau khúc như ngày xưa được nữa. Anh em chúng tôi thì thường xuyên xa nhà. Nhưng cứ vào dịp mùa xuân, năm nào chúng tôi cũng bảo nhau về quê quây quần quanh mẹ. Và năm nào chúng tôi cũng giành thời gian ra đồng hái rau khúc về làm bánh như ngày xưa bà và mẹ vẫn làm.
Ôi, cánh đồng thân yêu bao la xanh rờn rau khúc. Có lẽ đến đời sau, nhiều đời sau, rau khúc vẫn tươi xanh bất diệt như tình mẹ đối với các con bé bỏng của Người...