Nhận diện rủi ro để mở lối kinh tế Việt Nam năm 2024

28/04/2024 - 16:42
(Bankviet.com) Thế giới đang phải đối mặt với rất nhiều rủi ro và bất định. Sự phân mảnh toàn cầu cũng tiếp tục phức tạp. Những yếu tố này sẽ tác động đến nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Trước bối cảnh đó, để mở lối kinh tế năm 2024, Việt Nam cần cẩn trọng, kiên trì, linh hoạt và hợp tác quốc tế.
untitled.png
PGS,TS. Vũ Thanh Hương, Phó trưởng khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế (UEB) thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội

Đó là nhận định của PGS, TS. Vũ Thanh Hương, Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tại toạ đàm Kinh tế Việt Nam và thế giới "Nhận diện kinh tế Quý I/2024: Mở lối cho kinh tế cả năm” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức ngày 22/4.

Nhận diện 6 rủi ro của kinh tế toàn cầu

Báo cáo "Kinh tế thế giới quý I/2024: Rủi ro, bất định và phân mảnh” do PGS, TS. Vũ Thanh Hương trình bày đã chỉ ra 6 rủi ro đối với kinh tế toàn cầu năm 2024 gồm: rủi ro về địa chính trị; rủi ro do tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại; rủi ro do thị trường tài chính toàn cầu bất ổn; rủi ro công nghệ: chính sách quản lý không theo kịp sự phát triển của AI; rủi ro khí hậu; sự phân mảnh toàn cầu tiếp tục phức tạp.

Cụ thể, báo cáo của UEB xếp căng thẳng địa chính trị và các cuộc bầu cử ở vị trí đầu tiên trong số các rủi ro đối với kinh tế toàn cầu năm 2024. Nhóm rủi ro này bao gồm nguy cơ xung đột leo thang và lan rộng ở Trung Đông, xung đột Nga-Ukraine kéo dài, cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc, và siêu chu kỳ bầu cử.

Nghiên cứu nhận định chiến sự Israel-Hamas ở dải Gaza, các cuộc tấn công của phiến quân Houthi vào các chuyến tàu chở hàng đi qua Biển Đỏ, và giao tranh tiếp diễn giữa Nga và Ukraine đã và đang dẫn tới những ảnh hưởng bất lợi đối với kinh tế thế giới. Trong đó, đặc biệt phải kể tới tình trạng gián đoạn nguồn cung năng lượng, đẩy giá năng lượng tăng, kéo theo chi phí logistic cao hơn.

Giá dầu thô Brent giao sau tại thị trường London - giá tiêu chuẩn của thị trường dầu lửa toàn cầu - đã tăng từ mức dưới 76 USD/thùng vào thời điểm đầu năm nay lên mức hơn 90 USD/thùng hiện nay, tương đương tăng hơn 18%.

“Tình trạng này dẫn tới chi phí hàng hoá tăng và kéo áp lực lạm phát toàn cầu tăng theo”, PGS, TS. Vũ Thanh Hương nhận định.

Bên cạnh đó, các cuộc xung đột cũng gây gián đoạn chuỗi cung ứng và các hoạt động thương mại, từ đó đặt ra rào cản đối với tăng trưởng kinh tế giữa lúc sự phục hồi của kinh tế toàn cầu sau đại dịch COVID-19 còn chậm chạp.

Cuộc đối đầu Mỹ-Trung là một rủi ro địa chính trị khác đối với kinh tế thế giới năm nay. Nhóm nghiên cứu của UEB đề cập đến kỳ họp Quốc hội Trung Quốc hồi tháng 3 năm nay và cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2024 dự kiến diễn ra vào tháng 11. Theo nhận định của vị Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, các chính sách mà Bắc Kinh công bố tại kỳ họp Quốc hội, cũng như chủ trương của hai ứng cử viên tổng thống Mỹ của hai đảng Dân chủ và Cộng hoà đều cho thấy cuộc cạnh tranh giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ tiếp tục gay gắt.

Bên cạnh đó là nhận định nền kinh tế toàn cầu năm nay sẽ chịu sự chi phối của siêu chu kỳ bầu cử, khi 76 quốc gia tiến hành bầu cử, với khoảng 50% dân số thế giới đi bỏ phiếu.

Rủi ro thứ hai mà các nhà nghiên cứu của UEB đưa ra là sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc. Nhóm chuyên gia nhận định sự giảm tốc của kinh tế Trung Quốc là mang tính dài hạn. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế mà nghiên cứu trích dẫn, tốc độ tăng trưởng của kinh tế bình quân hàng năm của Trung Quốc sẽ giảm từ mức đỉnh trên 10% vào thập niên 1990 và thập niên 2000 xuống còn 4,4% vào thập niên 2020, 3% vào thập niên 2030 và 2% vào thập niên 2040.

“Những nền kinh tế phụ thuộc vào chuỗi cung ứng và thị trường Trung Quốc có thể phải đối mặt với sự giảm sút nhu cầu trong nhiều lĩnh vực từ hóa chất đến điện tử và máy móc. Các công ty và quốc gia có thể phải cân nhắc lại chiến lược kinh doanh và chuỗi cung ứng”, nhóm nghiên cứu viết.

Rủi ro thứ ba là sự bất ổn của thị trường tài chính toàn cầu. Nhóm nghiên cứu đề cập xung đột chính trị leo thang đẩy giá hàng hoá, dịch vụ và năng lượng tăng trở lại, đặt ra trở ngại cho cuộc chiến chống lạm phát ở một số nền kinh tế lớn như Mỹ và châu Âu. Điều này khiến các ngân hàng trung ương phải trì hoãn việc cắt giảm lãi suất. Thậm chí gần đây đã xuất hiện những dự báo cho rằng FED không thể giảm lãi suất trong năm 2024.

Những biến động đó dẫn tới xu hướng chính sách tiền tệ trái chiều giữa các nền kinh tế lớn là Mỹ, châu  và Trung Quốc, Nhật Bản, khiến cho sự bất định trên thị trường tài chính toàn cầu càng lớn hơn.

Cũng nằm trong nhóm rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu là mức nợ kỷ lục của thế giới. Nợ toàn cầu, gồm số tuyệt đối và tương đối thiết lập kỷ lục mới trong năm 2023. Trong đó, tổng nợ toàn cầu đạt mức 313 nghìn tỷ USD và tỷ lệ nợ so với tổng sản phẩm trong nước (GDP) toàn cầu lên tới 330%. Sự gia tăng chóng mặt của nợ là “một diễn biến đi ngược với điều kiện tài chính thắt chặt ở hầu hết các nền kinh tế lớn”, theo nhóm nghiên cứu.

Rủi ro thứ tư được báo cáo của nhóm tác giả UEB đề cập đến là rủi ro công nghệ. Trong bối cảnh sự nổi lên nhanh chóng của AI, một rủi ro lớn đặt ra là chính sách quản lý không theo kịp sự phát triển của AI. “Thông tin sai lệch mà AI đưa ra, nhất là trong một năm có nhiều cuộc bầu cử trên thế giới như năm nay, đã được đưa vào top 10 rủi ro mới của năm 2024”, PGS, TS. Hương nhấn mạnh.

Rủi ro thứ năm là rủi ro khí hậu, với sự trở lại của hiện tượng El Nino làm gia tăng nguy cơ xảy ra thảm hoạ tự nhiên. Biến đổi khí hậu đang đặt ra rủi ro lớn đối với an ninh lương thực và nguồn nước, từ đó có nguy cơ dẫn tới mất an ninh lương thực và nguồn nước, có thể dẫn tới bất ổn chính trị - xã hội.

Và rủi ro thứ sáu đối với kinh tế toàn cầu năm nay, theo nghiên cứu là sự phân mảnh trên toàn cầu, bao gồm phân mảnh giữa các quốc gia, phân mảnh thương mại và chính sách thương mại, phân mảnh về chính sách đầu tư… Tất cả đều dẫn đến sự gia tăng chi phí giao dịch, giảm khả năng tiếp cận thị trường, giá cả tăng đối với người tiêu dùng, suy giảm tiềm năng tăng trưởng, ảnh hưởng đặc biệt tiêu cực đến các quốc gia có mức độ phụ thuộc lớn vào thương mại, và suy giảm tác dụng của các hiệp định tự do thương mại (FTA).

Cơ hội và thách thức cho Việt Nam năm 2024

Từ những rủi ro, bất định và phân mảnh đó, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra những cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong năm 2024.

Theo Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, quý I, kinh tế Việt Nam phục hồi tốt. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020-2023.

Thời gian tới, Việt Nam có thể tận dụng các cơ hội đến từ sự phục hồi của thương mại toàn cầu, thương mại các khu vực ASEAN, EU, Hàn Quốc và thương mại nội địa. Sự phục hồi này sẽ tạo tiền đề cho thương mại Việt Nam tăng trưởng tốt hơn.

Mặt khác, các doanh nghiệp trong nước đang tìm cách đa dạng hóa và tái cấu trúc chuỗi cung ứng. Điều này sẽ giúp mở ra cơ hội thu hút FDI và mở rộng sản xuất kinh doanh.

Đồng thời, nhóm nghiên cứu cũng đánh giá Việt Nam có các chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế xanh, giúp phát triển năng lượng tái tạo và công nghệ, các dự án xanh, AI, xe điện... Điều này khẳng định các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư của Việt Nam phù hợp với xu hướng quốc tế và là cơ hội để Việt Nam thu hút FDI thời gian tới.

Đáng chú ý, Việt Nam duy trì ổn định chính trị, chủ động phát triển và đa dạng hóa mạng lưới hợp tác, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện FTAs sẽ là môi trường tốt để thu hút đầu tư nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.

Cùng với các cơ hội trên, PGS, TS. Vũ Thanh Hương cũng đã chỉ ra những thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt thời gian tới như căng thẳng địa chính trị, xu hướng phân mảnh, bảo hộ thương mại bằng các hàng rào mới: tăng chi phí, gián đoạn nguồn cung, gây áp lực lên tăng trưởng kinh tế và phục hồi xuất khẩu.

Những bất ổn của thị trường tài chính sẽ gia tăng áp lực lên thị trường tiền tệ, chính sách điều hành lãi suất, tỷ giá, cạnh tranh gia tăng trên thị trường vốn, áp lực dự trữ ngoại hối. Sự giảm tốc của 2 đối tác lớn của Việt Nam là Trung Quốc, Mỹ sẽ tác động đến tình hình xuất khẩu và FDI vào Việt Nam.

Ngoài ra, các vấn đề về huyến khích đầu tư nội địa, thuế tối thiểu toàn cầu, phân mảnh về chính sách FDI; rủi ro từ biến đổi khí hậu; thị trường chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút công nghệ cao, AI... sẽ là những thách thức mà kinh tế Việt Nam sẽ đối mặt trong thời gian tới đây.

“Trong bối cảnh hiện nay của quý I và tiếp theo, Việt Nam có thể mở lối kinh tế là cẩn trọng, kiên trì, linh hoạt và hợp tác quốc tế”, PGS, TS. Vũ Thanh Hương nhận định.

Minh Nhật

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ