Nhãn hiệu chứng nhận Gạo Việt Nam vẫn chưa được cấp cho bất cứ doanh nghiệp nào sử dụng
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện mới chỉ có 2 sản phẩm trong tổng số 13 sản phẩm nông sản chủ lực quốc gia đã được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam gồm: Nhãn hiệu chứng nhận “Cao su Việt Nam” (Hiệp hội Cao su Việt Nam làm chủ sở hữu) và nhãn hiệu chứng nhận “Gạo Việt Nam” (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ sở hữu). Các sản phẩm còn lại như cà phê, tôm, cá tra... đang trong quá trình xây dựng.
Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam |
Đề án xây dựng thương hiệu Gạo Việt Nam theo Quyết định số 706/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với 5 nội dung bao gồm: Nâng cao hình ảnh, giá trị thương hiệu gạo Việt Nam; phát triển thương hiệu gạo quốc gia; phát triển thương hiệu gạo vùng, địa phương; phát triển thương hiệu doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm gạo.
Đối với đăng ký trong nước, ngày 9/8/2018, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cấp Nhãn hiệu chứng nhận quốc gia Gạo Việt Nam/Vietnam Rice cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông là chủ sở hữu và có hiệu lực trong 10 năm.
Đối với đăng ký quốc tế, theo Báo cáo của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (nay Cục đã sát nhập vào Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường), nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam Rice (bảo hộ dưới dạng Nhãn hiệu chứng nhận) cho đến tháng 10/2021 đã có 19 quốc gia chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam Rice bao gồm: Indonesia, Nga và OAPI (gồm 17 nước châu Phi, cụ thể: Benin, Burkina Faso, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Comoros, Cộng hòa Cônggô, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích đạo, Gabon, Guinea, Guinea Bissau, Mali, Mauritania, Niger, Senegal và Togo). Có 3 quốc gia (Trung Quốc, Brunei và Na Uy) đã thông báo bảo hộ Nhãn hiệu chứng nhận.
Mặc dù Nhãn hiệu chứng nhận Gạo Việt Nam đã được bảo hộ trong nước và tại một số nước, nhưng cho đến nay chưa được cấp cho bất cứ doanh nghiệp nào sử dụng vì còn một số vướng mắc.
Đã có 22 quốc gia bảo hộ nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam Rice. Hiện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang là chủ sở hữu nhãn hiệu này. |
Cụ thể, cơ sở pháp lý quản lý và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận chưa đầy đủ. Theo đó, Quyết định số 1499/QĐ-BNN-CBTTNS ngày 2/5/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về quy định quản lý sử dụng bị Văn phòng Chính phủ cho là chứa thủ tục hành chính, không đúng với quy định pháp luật. Do vậy, không đủ điều kiện để thực thi cấp quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận theo văn bản này.
Để giải quyết vướng mắc này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành chuyển nhượng quyền sở hữu cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam quản lý sử dụng Nhãn hiệu chứng nhận Gạo Việt Nam.
Tuy nhiên, Hiệp hội phải sửa đổi điều lệ mới đủ điều kiện để tiếp nhận chuyển nhượng. Do vậy, phương án này đã không thực hiện được. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép xây dựng Nghị định quản lý sử dụng Nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam Rice theo trình tự thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, cho đến tháng 11/2022 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa xây dựng xong Nghị định.
Đăng ký bảo hộ ra nước ngoài cũng gặp khó khăn bởi 2 lý do. Thứ nhất, thiếu kinh phí đăng ký (Hiệp hội lương thực Việt Nam đề nghị không tiếp tục thực hiện được các nghĩa vụ liên quan đến những chi phí phát sinh của việc đăng ký bảo hộ Nhãn hiệu Gạo Việt Nam theo như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao do khó khăn về kinh phí). Thứ hai, một số nước chỉ chấp nhận bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu thông thường, không bảo hộ dưới hình thức Nhãn hiệu chứng nhận.
Ngành cà phê gặp vướng mắc do thiếu hành lang pháp lý
Không chỉ gạo, cà phê Việt Nam chất lượng cao đã được phê duyệt là sản phẩm quốc gia. Nội dung xây dựng thương hiệu Cà phê Việt Nam chất lượng cao được cụ thể hóa tại Đề án Khung phát triển sản phẩm quốc gia Cà phê Việt Nam chất lượng cao do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành tại Quyết định 4653/QĐ-BNN-KHCN ngày 15/11/2017.
Xây dựng thương hiệu Cà phê Việt Nam chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế |
Một trong những mục tiêu và nội dung quan trọng của Đề án này là xây dựng thương hiệu Cà phê Việt Nam chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, bảo đảm có 50% doanh nghiệp đầu ngành gắn thương hiệu cà phê Việt Nam chất lượng cao trên bao bì sản phẩm trong giao dịch, mua bán trên thị trường trong nước và thế giới.
Để thực hiện xây dựng thương hiệu, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) được giao xây dựng, đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ Nhãn hiệu chứng nhận Cà phê Việt Nam chất lượng cao.
Cho đến nay, Viện đã hoàn thiện đầy đủ hồ sơ (trong đó gồm Quy chế quản lý và sử dụng, logo, tiêu chí Cà phê Việt Nam chất lượng cao) và đã nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ Nhãn hiệu chứng nhận Cà phê Việt Nam chất lượng cao cho sản phẩm cà nhân, cà phê rang và cà phê bột tại Cục Sở hữu trí tuệ vào tháng 12/2022.
Tuy nhiên, cho đến tháng 9/2023, Cục Sở hữu trí tuệ chưa cấp văn bằng bảo hộ Nhãn hiệu chứng nhân Cà phê Việt Nam chất lượng cao. Việc đăng ký bảo hộ Nhãn hiệu chứng nhận Cà phê Việt Nam chất lượng cao và xây dựng thương hiệu cho ngành cà phê gặp vướng mắc chính là do thiếu hành lang pháp lý và hệ thống quản lý tên gọi quốc gia. Bộ Khoa học Công nghệ được giao nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về việc sử dụng tên quốc gia nhưng hiện nay Bộ này cũng chưa thực hiện.
Do Nhãn hiệu chứng nhận Cà phê Việt Nam chất lượng cao chưa được bảo hộ, Đề án tuyên truyền, quảng bá cho thương hiệu Cà phê Việt Nam chất lượng cao gắn với thương hiệu ngành, chỉ dẫn địa lý do Bộ Công Thương trình Thủ tướng cũng chưa được phê duyệt.
Về tồn tại, hạn chế trong xây dựng và phát triển thương hiệu cho nhóm sản phẩm nông sản chủ lực quốc gia, theo đại diện Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, đối với nhãn hiệu chứng nhận chủ yếu là giao cho các cơ quan quản lý nhà nước, nên khó khăn trong việc chuẩn hóa, đánh giá và thực thi các yêu cầu trong quản lý, kiểm soát các tiêu chí chứng nhận.
80% sản lượng nông sản xuất khẩu chưa xây dựng được thương hiệu
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện Việt Nam duy trì 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 7 nhóm mặt hàng (gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, cà phê, gạo, cao su và rau quả, hạt điều) đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD.
Mặc dù đạt được những con số ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu, nhưng có 80% sản lượng nông sản xuất khẩu chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có lôgô, nhãn mác riêng và chưa tham gia đầy đủ vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều sản phẩm được xuất khẩu và bán ở thị trường nước ngoài dưới thương hiệu không phải của doanh nghiệp Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam chưa có chính sách riêng nào để hỗ trợ cho việc phát triển thương hiệu nông sản. Thông qua công tác tuyên truyền và các chương trình hiện nay ở các Bộ, ngành và địa phương, nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã tích cực, chủ động trong đăng ký nhãn hiệu, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển thương hiệu nông sản, nhưng việc phát triển các thương hiệu mạnh (ở cả 3 nhóm sản phẩm quốc gia, vùng và địa phương) đều còn hạn chế.
Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thương hiệu cho nông sản đảm bảo phù hợp hợp với các chủ trường, chính sách, cơ sở pháp lý liên quan và phù hợp với quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết.
Các nội dung chính sách cần xem xét gồm: Hỗ trợ xây dựng thương hiệu thông qua thúc đẩy đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ trong và ngoài nước; hỗ trợ xây thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; thúc đẩy và tăng cường hiệu quả thực thi và chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, xâm phạm thương hiệu; hỗ trợ hình thành, tạo dựng văn hóa sở hữu trí tuệ và phát triển thương hiệu nông sản.
Nguyễn Hạnh