Khái niệm thương phiếu
Thương phiếu (Commercial paper) là giấy nhận nợ do các công ty có uy tín phát hành nhằm mục đích vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính. Thương phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là nhà đầu tư sẽ mua với giá thấp hơn mệnh giá và thu lợi nhuận từ khoản chênh lệch giữa mệnh giá và giá chiết khấu.
Những thương phiếu nguyên thuỷ (commercial bill) chỉ xuất hiện trong các hoạt động mua bán chịu hàng giữa các công ty kinh doanh với nhau. Nó có thể do người bán chịu hay người mua chịu hàng hoá phát hành nhưng bản chất vẫn là giấy xác nhận quyền đòi tiền khi đến hạn của người sở hữu thương phiếu. Ngày nay, thương phiếu được phát hành không chỉ trong quan hệ mua bán chịu hàng hoá mà còn được phát hành để vay vốn trên thị trường tiền tệ.
Hình minh họa |
Các công ty danh tiếng khi có nhu cầu vốn có thể phát hành thương phiếu bán trực tiếp cho người mua theo mức giá chiết khấu. Những người đầu tư thương phiếu ngoài các ngân hàng còn có các trung gian tài chính và công ty khác. Các thương phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nhưng mức lãi suất chiết khấu cũng cao hơn.
Phân loại thương phiếu
Thương phiếu được phân thành các loại khác nhau, tùy theo tiêu chí.
Căn cứ vào nhà phát hành có thể chia thành 2 loại thương phiếu:
- Hối phiếu: là chứng chỉ có giá do người ký phát lập ra nhằm yêu cầu người bị ký phát thanh toán một số tiền xác định cho người thụ hưởng khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai.
- Lệnh phiếu: là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện cho người thụ hưởng một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai.
Xét theo hình thức chuyển nhượng chia thành 3 loại:
- Thương phiếu vô danh: Trên thương phiếu không ghi tên người thụ hưởng.
- Thương phiếu đích danh: Bắt buộc ghi tên người thụ hưởng lên thương phiếu.
- Thương phiếu ký danh: Trên thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng và có quyền chuyển nhượng, mua bán.
Đặc điểm của thương phiếu
Về chủ thể phát hành thương phiếu, người phát hành (tức bên ký phát) phải là doanh nghiệp (có thể doanh nghiệp nhà nước hoặc tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh…), không bao gồm các tổ chức tín dụng.
Thời hạn thanh toán của thương phiếu sẽ do người thụ hưởng và người ký phát xác định có thể là ngay khi xuất trình hoặc sau một thời gian nhất định kể từ ngày hối phiếu được chấp nhận hoặc kể từ ngày ký phát hành hay 1 thời điểm. Nếu ngày thanh toán trùng với ngày cuối tuần thì được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.
Các hoạt động liên quan đến thương phiếu như phát hành, chuyển nhượng, thanh toán, bảo lãnh, truy đòi, khởi kiện, cầm cố tại Việt Nam được điều chỉnh trong phạm vi của Pháp lệnh thương phiếu.
Về hình thức phát hành, thương phiếu phải được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là thấp hơn so với mệnh giá.
Khoản chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá là lợi nhuận nhà đầu tư nhận được.
Thương phiếu ở Việt Nam phải được lập bằng tiếng Việt, theo mẫu in sẵn của Ngân hàng Nhà nước.
Ưu điểm và nhược điểm của thương phiếu
Ưu điểm
Do có tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ.
Nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp.
- Thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại ngân hàng nhà nước để khôi phục nguồn vốn của mình
- Trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.
- Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nhược điểm
- Do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.
- Với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.
- Quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.
Tuy vậy do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân hàng nên những nhược điểm nêu trên của tín dụng thương mại và của sự vận động thương phiếu sẽ giảm đến mức xem như không đáng kể.
Diệp Chi