Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045: Tham vọng đầy thách thức nhưng hoàn toàn khả thi

08/06/2025 - 18:47
(Bankviet.com) Việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045 không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước. Dù con đường hiện thực hóa mục tiêu này đặt ra rất nhiều thách thức nhưng hoàn toàn khả thi với sự đồng lòng, quyết tâm và đột phá mạnh mẽ, toàn diện từ các cấp, ngành và toàn xã hội.
quang-canh-td.jpg
Quang cảnh Tọa đàm “Định hướng và Giải pháp cho Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045”.

Đây là khẳng định của các chuyên gia tại tọa đàm “Định hướng và Giải pháp cho Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045” do Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tổ chức ngày 3/6.

Thách thức lớn từ cả môi trường bên ngoài và bên trong

Phát biểu khai mạc tọa đàm, GS.TS Phạm Hồng Chương, Giám đốc Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tái cơ cấu nền kinh tế và tận dụng tối đa các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Đảng và Nhà nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên vào năm 2025 và mức tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026-2030, hướng tới nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nhóm nước thu nhập cao vào năm 2045. Việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước.

gs-pham-hong-chuong.jpg
GS.TS Phạm Hồng Chương, Giám đốc Đại học Kinh tế Quốc dân.

Tuy nhiên, con đường hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số đặt ra nhiều thách thức về thể chế, nguồn lực, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, khoa học - công nghệ và năng lực nội tại của doanh nghiệp. Đồng thời, bối cảnh toàn cầu đang có nhiều biến động với các yếu tố như căng thẳng địa chính trị, chính sách các nước lớn thay đổi, vấn đề chuyển đổi số, chuyển dịch chuỗi cung ứng và yêu cầu phát triển xanh - bền vững… cũng đòi hỏi Việt Nam phải có các chiến lược phát triển linh hoạt, hiệu quả và đột phá.

Đồng quan điểm, TS. Đặng Thị Thu Hoài, Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược cho rằng, tại Việt Nam hiện nay, mô hình tăng trưởng vẫn dựa vào thâm dụng lao động, vốn, tài nguyên, tăng năng suất lao động còn thấp, hiệu quả đầu tư chưa cao. Do đó, việc nâng cao chất lượng tăng trưởng đóng vai trò quyết định trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, vượt qua bẫy thu nhập trung bình.

ong-pham-the-anh.jpg
PGS.TS Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân.

Chỉ ra một số hạn chế trong mô hình tăng trưởng hiện nay của Việt Nam, PGS.TS Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, Việt Nam đang tăng trưởng dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu, chủ yếu gia công và lắp ráp trong khi vốn FDI hầu như không có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, thiếu các chính sách hỗ trợ của nhà nước và phụ thuộc vào một số thị trường lớn.

“Những thách thức từ cả môi trường bên ngoài và bên trong là vô cùng lớn, do vậy, Việt Nam cần có những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp, phát huy được nội lực và giảm thiểu được những rủi ro của bất ổn kinh tế vĩ mô và căng thẳng địa chính trị trên thế giới”, PGS.TS Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định.

Định hướng và Giải pháp cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045

Bàn về định hướng và giải pháp, các chuyên gia cho rằng, để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045 thì cần ổn định kinh tế vĩ mô; có kịch bản tăng trưởng phù hợp, đảm bảo sự linh hoạt và kiểm soát rủi ro, có cơ chế giảm sát, trọng tâm trọng điểm; tăng năng suất lao động; đánh giá tác động mục tiêu về môi trường, xã hội với tăng trưởng; tìm động lực tăng trưởng từ tổng cung và tổng cầu...

Theo PGS.TS Phạm Thế Anh, trong bất kể mô hình tăng trưởng nào, các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô (tiền tệ và tài khóa) luôn có vai trò quan trọng. Các chính sách kinh tế vĩ mô tốt sẽ nuôi dưỡng tăng trưởng, tăng trưởng cao lại tạo nền tảng cho sự ổn định kinh tế vĩ mô. Quá trình này sẽ được củng cố nếu khả năng cạnh tranh của quốc gia được cải thiện (nhờ sự cải thiện của năng suất lao động, các cải cách kinh tế, FTAs, chi phí lao động thấp, hay tỷ giá hối đoái ổn định).

Từ thực tiễn và kinh nghiệm ở một số quốc gia Đông Á trong thời kỳ tăng trưởng cao, PGS.TS Phạm Thế Anh khuyến nghị, cần xây dựng kế hoạch dài hạn cụ thể, tạo chính sách hỗ trợ (thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh) cho các ngành mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh. Đồng thời, đẩy mạnh đào tạo nhân lực chất lượng cao và đầu tư cho R&D; chọn lọc đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng có sức lan tỏa cao, tránh dàn trải, không tập trung vào các mục tiêu trọng điểm, bị chi phối bởi các yếu tố lợi ích cục bộ hoặc tính thời điểm; không đánh đổi ổn định kinh tế vĩ mô.

dang-thi-thu-hoai.jpg
TS. Đặng Thị Thu Hoài, Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược.

Để có nguồn lực thực hiện các dự án đầu tư công lớn, phải chuyển dịch cơ cấu chi và tìm các nguồn thu bền vững, PGS.TS Phạm Thế Anh cho rằng cần thu hẹp, tinh gọn bộ máy; một mặt áp dụng thuế bất động sản (từ căn nhà thứ hai trở đi); mặt khác giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân để kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước (thay thế một phần xuất khẩu). Mặt khác ưu đãi thuế dựa trên tỷ lệ nội địa hóa; thoái vốn khỏi doanh nghiệp nhà nước và đẩy mạnh hợp tác công tư.

Khẳng định việc tăng năng suất là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng, TS. Đặng Thị Thu Hoài đã đưa ra một số giải pháp chiến lược là vận hành cơ chế nội sinh đổi mới sáng tạo, hình thành được văn hóa sáng tạo.

Cụ thể, cần cải cách hệ thống luật pháp, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, dựa trên đổi mới sáng tạo như: tiếp cận nguồn lực, vốn, đất đai, cơ hội kinh doanh phải minh bạch, dựa trên năng lực đổi mới sáng tạo; phát triển các loại thị trường vận hành hiệu quả; hỗ trợ hiệu quả của nhà nước, tránh méo mó tín hiệu thị trường....

Cùng với đó, kiến tạo điều kiện, năng lực hấp thụ công nghệ và đổi mới sáng tạo tập trung vào ngành trọng điểm vùng có lợi thế: Phát triển nhân lực chất lượng cao; đầu tư nâng cấp các cơ sở giáo dục, đào tạo, triển khai các chương trình đào tạo lại phục vụ cho chuyển đổi ngành nghề; đầu tư vào cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hạ tầng dữ liệu và hỗ trợ xây dựng năng lực phân tích và quản trị số; chương trình hỗ trợ, nâng cao năng lực khoa học công nghệ.

Mặt khác, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số: tăng đầu tư từ ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội cho hoạt động R&D thuộc các lĩnh vực trọng tâm; xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ theo chủ đề, phù hợp với các lĩnh vực trọng tâm theo vùng; chính sách thuế, tín dụng khuyến khích R&D, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích liên kết doanh nghiệp với các tổ chức nghiên cứu, phát triển cụm liên kết ngành đổi mới sáng tạo.

tran-thi-van-hoa-2-.jpg
GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Đại học Kinh tế Quốc dân.

GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Đại học Kinh tế Quốc dân thì đưa ra 3 nhóm giải pháp trọng yếu sau:

Thứ nhất là nhóm giải pháp Chính trị - Hành chính, bao gồm thực thi triệt để "cuộc cách mạng thể chế"; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; nâng cao năng lực quản trị quốc gia.

Thứ hai là nhóm giải pháp Kinh tế - Thương mại, bao gồm: Chiến lược thu hút FDI và tăng cường liên kết nội địa; thúc đẩy kinh tế số và công nghiệp mới nổi; nâng cao năng suất lao động toàn diện; phát triển thị trường nội địa và đa dạng hóa xuất khẩu.

Thứ ba là nhóm giải pháp phát triển không gian kinh tế mới bao gồm: Quy hoạch và đầu tư hạ tầng chiến lược; phát triển vùng động lực và hành lang kinh tế; phát triển đô thị thông minh bền vững.

Để hiện thực hóa lộ trình và giải pháp, GS.TS Trần Thị Vân Hoa lưu ý cần đảm bảo các điều kiện thiết yếu sau: Quyết tâm chính trị cao nhất và đồng thuận xã hội; thực hiện thành công ba đột phá chiến lược; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô: Kiểm soát hiệu quả lạm phát, ổn định tỷ giá, đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế; nâng cao năng lực chống chịu và thích ứng; huy động và sử dụng tối ưu mọi nguồn lực; đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội.

"Việc đạt vị thế quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 là khát vọng tham vọng nhưng hoàn toàn khả thi cho Việt Nam với điều kiện có sự đồng lòng, quyết tâm và đột phá mạnh mẽ, toàn diện từ các cấp, ngành và toàn xã hội", GS.TS Trần Thị Vân Hoa khẳng định.

Minh Đức

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ