Nền kinh tế tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội năm 2023, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung cho biết kinh tế xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Trên cơ sở kết quả của 8 tháng, ước cả năm 2023, ít nhất có 10/15 chỉ tiêu đạt và vượt mục tiêu đề ra. Riêng chỉ tiêu GDP, theo báo cáo là “phấn đấu mức cao nhất”. CPI được dự kiến sẽ vượt, ước thực hiện 3,5%/4,5%.
Kết quả nổi bật được nhất về kinh tế 8 tháng năm 2023 là kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân giảm dần qua hàng tháng; bình quân 8 tháng tăng 3,1% . Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất, tỷ giá, hạn mức tăng trưởng tín dụng được điều hành phù hợp, hướng tín dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên.
Mặt bằng lãi suất giảm tích cực, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới giảm khoảng 1,0% so với cuối năm 2022; thị trường ngoại tệ trong nước và tỷ giá diễn biến tương đối ổn định, thanh khoản thị trường được duy trì, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ. Thu ngân sách nhà nước 8 tháng ước đạt 69,4% dự toán, phấn đấu cả năm đạt 100% dự toán được giao trong khi thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.
Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu duy trì xu hướng tháng sau tăng so với tháng trước; cán cân thương mại 8 tháng năm 2023, xuất siêu 20,19 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu là 1,34 tỷ USD) góp phần bảo đảm cán cân thanh toán, hỗ trợ cân đối cung cầu ngoại tệ; cả năm 2023 ước xuất siêu 14,4 tỷ USD. An ninh năng lượng (điện, xăng, dầu), lương thực, thực phẩm được bảo đảm; thị trường lao động phục hồi nhanh, cơ bản đáp ứng yêu cầu.
Đầu tư phát triển tiếp tục đạt kết quả tích cực, là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; giải ngân vốn đầu tư công 8 tháng đạt 42,35% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ năm 2022 (39,15%), về số tuyệt đối cao hơn gần 87.000 tỷ đồng. Tổng vốn FDI đăng ký 8 tháng đạt 18,15 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ, vốn FDI thực hiện đạt 13,1 tỷ USD, tăng 1,3%. Tình hình phát triển doanh nghiệp ngày càng tích cực hơn; tính chung 8 tháng có 149,4 nghìn doanh nghiệp gia nhập thị trường. Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế Việt Nam .
Bên cạnh những mặt tích cực, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung cũng chỉ ra những những hạn chế như: hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn; nhu cầu thị trường trong nước bị thu hẹp, xuất khẩu sang các thị trường chủ lực đều giảm so với cùng kỳ; tăng trưởng tín dụng đạt thấp, nợ xấu có xu hướng tăng, các thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn rủi ro...
Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, Thứ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư cho biết có 15 chỉ tiêu chủ yếu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, dựa trên chỉ tiêu 5 năm 2021 - 2025 Quốc hội đã thông qua.Trong đó, Tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 - 4.730 USD; Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,1%-24,2%; (4) Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4-4,5%; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 4,8%-5,3%...
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định, năm 2024, dự báo nền kinh tế tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, thậm chí còn nhiều hơn cả năm 2023. Trong bối cảnh này, mục tiêu của kế hoạch năm 2024 được xác định tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng gắn với củng cố, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Đẩy mạnh, tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế.
Cần đặt ưu tiên trong điều hành chính sách tiền tệ
Tại phiên thẩm tra, các đại biểu đã đưa ra hàng loạt đề nghị để Chính phủ có căn cứ đưa ra những nhiệm vụ giải pháp của năm 2024, đánh giá chung về bối cảnh, tình hình trong nước và quốc tế, xu hướng điều hành chính sách của các nước lớn, các đối tác thương mại lớn của Việt Nam và dự báo triển vọng cũng như tác động đến tình hình kinh tế - xã hội của nước ta.
Về thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu, dự kiến có 5/15 chỉ tiêu không đạt mục tiêu đề ra (năm 2022 có 2 chỉ tiêu không đạt), các đại biểu đề nghị đánh giá nguyên nhân đối với từng chỉ tiêu chưa đạt, trọng tâm là tốc độ tăng GDP cả năm ước thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra (mục tiêu được Quốc hội giao là khoảng 6,5%); chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất lao động xã hội năm thứ 3 liên tiếp không đạt.
Nhận định với những khó khăn của nội tại nền kinh tế sẽ tác động rất lớn đến kế hoạch và mục tiêu tăng trưởng của năm 2024, các đại biểu đề nghị Chính phủ đánh giá thêm về tính hiệu quả của các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian qua, tại sao lãi suất giảm nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn tăng thấp. Điều này cho thấy khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, hiện nay tình trạng giải ngân đầu tư công tuy cải thiện nhưng vẫn chưa được như kỳ vọng. Tính đến hết tháng 8 vẫn còn nhiều bộ, ngành, địa phương chưa phân bổ hết kế hoạch vốn đã được Thủ tướng Chính phủ giao (có 20/51 bộ, cơ quan trung ương và 24/63 địa phương chưa phân bổ hết kế hoạch vốn ngân sách trung ương).
Tại phiên họp, các đại biểu cũng đề nghị Chính phủ đánh giá về sự phục hồi của tiêu dùng trong nước và tác động đến sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế khi tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng giảm nhiều từ đầu năm (Quý I tăng 13,9%, tháng 5 tăng 11,5%, tháng 8 chỉ tăng 7,6%)[1] cho thấy tổng cầu trong và ngoài nước đều suy yếu; đánh giá về tình hình xuất nhập khẩu và triển vọng phục hồi đơn hàng trong thời gian tới, các giải pháp căn cơ hơn để bảo đảm hiệu quả chi ngân sách nhà nước, hỗ trợ phục hồi tổng cầu và tăng trưởng kinh tế.
Giải trình các vấn đề đặt ra, lãnh đạo các bộ, ngành cho rằng, dù đã rất nỗ lực thực hiện, tuy nhiên nhiều vấn đề nội tại của nền kinh tế chưa thể giải quyết được ngay. Vì vậy, để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong năm 2024 và đạt được tăng trưởng theo mục tiêu đề ra là 6-6,5% thì Chính phủ tiếp tục kiến nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh nguồn lực thực hiện các chính sách cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội; triển khai chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Chương trình.
Phát biểu kết luận phiên thẩm tra, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đề nghị Chính phủ có phân tích đánh giá căn cơ hơn về những hạn chế trong thực hiện các chính sách tài khoá và tiền tệ theo Nghị quyết 43 của Quốc hội. Từ đó, có giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, sớm khắc phục các tồn tại, hạn chế để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm 2024. Đặc biệt là các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm và 3 Chương trình mục tiêu quốc gia.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đề nghị phát triển mạnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng, đa dạng hóa thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu, rộng hơn vào các chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu, phấn đấu thặng dư thương mại bền vững.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh lưu ý, năm 2024 vẫn tiếp tục còn nhiều khó khăn, vì vậy vẫn cần đặt ưu tiên để điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác nhằm ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đảm bảo đạt mục tiêu tăng trưởng từ 6,0-6,5% và tốc độ tăng CPI bình quân là 4,0-4,5% theo Kế hoạch Chính phủ đặt ra.
Minh Nhật