Phóng viên: Dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu về đầu tư quốc tế, ông đánh giá như thế nào về thực trạng phát triển và đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT) tại Việt Nam hiện nay?
TS. Ngô Công Thành: Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hệ thống các KCN, KKT ở Việt Nam đã bao phủ 61/63 tỉnh thành, với 414 KCN, trong đó: có 4 khu chế xuất, 26 KKT cửa khẩu (thành lập tại 21 tỉnh biên giới đất liền), 18 KKT ven biển được thành lập tại 17 tỉnh, thành phố ven biển. Chỉ có 2 tỉnh Điện Biên và Lai Châu chưa có KCN.
Trong 414 KCN, có 293 khu đã đi vào hoạt động thu hút đầu tư, 121 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.
Hiện đã có các doanh nghiệp của 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN Việt Nam, trong đó 10 đối tác đầu tư lớn nhất chiếm 91% tổng vốn FDI vào các KCN như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Hồng Kông (Trung Quốc), Trung Quốc, Hà Lan, Malaysia….
Còn 10 địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN và chiếm tới 66,5% tổng vốn FDI vào KCN cả nước là: Đồng Nai, Bình Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Thái Nguyên và Hà Nội.
Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về hiệu quả thu hút đầu tư phát triển các KCN, KKT thời gian qua. Đâu là nguyên nhân mà tỷ lệ lấp đầy ở các KCN, KKT còn thấp?
TS. Ngô Công Thành: Các KCN, KKT thời gian qua đã đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, thể hiện qua các mặt chủ yếu là: Thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển; đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi không gian phát triển, thúc đẩy liên kết vùng, liên kết ngành, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng bền vững; góp phần đẩy mạnh tăng trưởng sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế…
Thực tế cho thấy, chi phí đầu tư phát triển hạ tầng KCN có xu hướng tăng nhanh. Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Đầu tư quốc tế (ISC) dựa trên đơn giá đền bù đất của các địa phương, chi phí san lấp mặt bằng và định mức xây dựng bình quân của Bộ Xây dựng thời gian qua, thì tổng vốn đầu tư phát triển hạ tầng KCN đến hết năm 2022 đạt khoảng 28 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài là 9,3 tỷ USD (nguồn Bộ Kế hoạch và Đầu tư), vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đạt khoảng 19 tỷ USD.
Về đầu tư sản xuất trong KCN, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2022 đã có hơn 21.600 dự án đầu tư vào các KCN đang hoạt động với tổng vốn đầu tư hơn 337 tỷ USD. Trong đó: 10.400 dự án đầu tư trong nước, với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,54 triệu tỷ đồng, tương đương 106 tỷ USD; 11.200 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký 231 tỷ USD;
Tổng vốn đầu tư đã thực hiện của các dự án trong KCN, KKT đạt 212 tỷ USD. Hiệu suất sử dụng đất bình quân (suất đầu tư) đạt 4,61 triệu USD/ha.
Bên cạnh kết quả đạt được, theo tôi, thu hút đầu tư phát triển KCN, KKT đã bộc lộ những hạn chế cần được khắc phục:
Thứ nhất: Quy hoạch định hướng phát triển các KCN, KKT còn bất cập, thiếu tầm nhìn tổng thể, dài hạn, lại dàn trải theo địa giới hành chính, thiếu liên kết ngành và liên kết vùng;
Thứ hai, chất lượng hiệu quả thu hút đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu;
Thứ ba, các địa phương và nhà đầu tư phát triển hạ tầng KCN trong nước vẫn ưu tiên tập trung thu hút đầu tư lấp đầy KCN, chưa thực sự chú trọng tới cơ cấu ngành nghề, công nghệ, yếu tố môi trường và xã hội của dự án đầu tư, nên hiệu quả đầu tư phát triển các KCN chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Cuối cùng, do năng lực tài chính hạn chế, chủ đầu tư hạ tầng KCN Việt Nam thường có tâm lý chờ đợi tìm được nhà đầu tư thứ cấp, rồi mới đầu tư hạ tầng dùng chung trong KCN, trong khi nhà đầu tư nước ngoài lại muốn có mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật ngay thì mới quyết định đầu tư. Sự giằng co, chờ đợi này đã khiến nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp.
Phóng viên: Theo quy hoạch sử dụng đất quốc gia đã được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2021, đến năm 2030 diện tích đất phát triển các KCN sẽ đạt khoảng 210.930 ha. Như vậy, từ nay đến năm 2030 sẽ có thêm khoảng 120.000 ha KCN, trong đó diện tích đất công nghiệp cho thuê khoảng 80.000 - 85.000 ha. Vậy, nhu cầu thu hút đầu tư phát triển các KCN Việt Nam đến năm 2030 như thế nào, thưa ông?
TS. Ngô Công Thành: Hiện đơn giá đền bù đất, giải phóng mặt bằng và định mức xây dựng hạ tầng KCN đã được điều chỉnh tăng so với giai đoạn trước. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Đầu tư quốc tế (ISC), ước tính chi phí đầu tư phát triển một ha đất KCN bình quân hiện nay khoảng 600.000 USD/ha. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng các KCN đã được quy hoạch đến năm 2030, đang và sẽ triển khai xây dựng vào khoảng 72 tỷ USD.
Tôi nhận thấy, nhu cầu thu hút đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN rất lớn. Nếu tính suất đầu tư bình quân 6,5 triệu USD/ha đất công nghiệp thì nhu cầu thu hút vốn đầu tư lấp đầy diện tích còn lại của các KCN của Việt Nam đã được quy hoạch khoảng 600-650 tỷ USD. Còn tổng vốn đầu tư phát triển hạ tầng KCN và lấp đầy các KCN khoảng 670-720 tỷ USD.
Ngoài ra, còn phải tính đến nhu cầu vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong KCN, tái cấu trúc và chuyển đổi 293 KCN hiện hữu thành các KCN sinh thái để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh theo cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Phóng viên: Ông vừa nói tới năng lực tài chính hạn của chủ đầu tư hạ tầng KCN Việt Nam còn hạn chế. Vậy làm sao huy động được nguồn vốn lớn như ông vừa nói để đầu tư vào các KCN, KKT?
TS. Ngô Công Thành: Để huy động được nguồn vốn to lớn đầu tư vào các KCN, KKT trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản trong việc khai thông các dòng vốn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận thuận lợi các yếu tố sản xuất và đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư.
VIPFA thuộc Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam sẽ là một nhân tố quan trọng đồng hành cùng các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý trong việc tìm kiếm các giải pháp huy động nguồn lực nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phát triển các KCN, KKT của Việt Nam theo đúng định hướng tăng trưởng xanh và bền vững.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Tri Nhân (thực hiện)