"Thưa các vị đại sứ, các tổ chức quốc tế, các đối tác phát triển; các bộ, ngành Trung ương và địa phương,
Thưa toàn thể quý vị đại biểu,
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030 - Ảnh: VGP |
1. Hôm nay, trong bối cảnh dịch bệnh đã được kiểm soát trên cả nước, mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội đang được phục hồi, phát triển; tôi rất vui mừng tham dự Hội nghị với nhiều nội dung quan trọng đối với vùng ĐBSCL.
Có thể nói chúng ta tổ chức Hội nghị này để tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị ngày 02/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL. Hội nghị 5 trong 1 này là sáng kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, bao gồm: (1) Công bố Chương trình hành động của Chính phủ về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị; (2) Công bố quy hoạch vùng ĐBSCL theo quy định của Luật Quy hoạch và xúc tiến đầu tư cho vùng ĐBSCL; (3) Giới thiệu Chỉ thị về một số nhiệm vụ thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu; (4) Công bố các cam kết tài trợ quốc tế; (5) Tổ chức triển lãm, quảng bá hình ảnh, vùng đất văn hóa, con người vùng ĐBSCL.
Đó là những nội dung chính mang nhiều kỳ vọng, niềm tin của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong việc thúc đẩy phát triển KTXH vùng ĐBSCL; có ý nghĩa rất lớn, quan trọng, thiết thực nhằm cụ thể hóa, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các Nghị quyết, chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta về phát triển vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2045.
Tôi ghi nhận, biểu dương nỗ lực và quyết tâm cao của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành và các địa phương vùng ĐBSCL, các đối tác quốc tế đã phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị chu đáo cho việc tổ chức Hội nghị quan trọng này.
Tôi đánh giá cao sự có mặt của đại diện các đối tác phát triển, các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân, nhà đầu tư trong và ngoài nước, các chuyên gia, nhà khoa học, các viện nghiên cứu và cơ quan báo chí cùng toàn thể quý vị đại biểu dự Hội nghị. Tôi tin tưởng rằng Hội nghị sẽ góp phần khơi thông, huy động các nguồn lực, là sự khởi nguồn thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của ĐBSCL trong thời gian tới.
Chúng ta đã có một buổi sáng làm việc hết sức tích cực, hiệu quả, với tinh thần thẳng thắn, xây dựng và cởi mở. Các báo cáo đã được lãnh đạo các bộ trình bày rõ, ngắn gọn, đầy đủ; các tham luận và nhiều ý kiến phát biểu rất sâu sắc, khách quan, trách nhiệm, tâm huyết, khoa học và thực tiễn, cũng như đã đề xuất nhiều giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả.
Nhưng để trở thành hiện thực, chúng ta đã quyết tâm rồi, phải quyết tâm hơn nữa; đã cố gắng, nỗ lực rồi, phải cố gắng, nỗ lực hơn nữa; hành động quyết liệt, trọng tâm hơn nữa để thực sự có sản phẩm, kết quả, mang lại hạnh phúc, ấm no nhiều hơn cho nhân dân vùng ĐBSCL. Khi đó, chúng ta mới có thể tự tin nói Hội nghị rất thành công.
2. Về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của ĐBSCL
ĐBSCL giữ vị thế hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, trong giao thương với các nước ASEAN và Tiểu vùng sông Mekong; có nhiều tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh:
- Có diện tích tự nhiên và dân số lớn: Gần 4 triệu km2 (khoảng 13% diện tích cả nước), dân số khoảng 18 triệu người (19% dân số cả nước); hiện nay đóng góp khoảng 12% vào GDP của cả nước.
- Có tiềm năng về địa hình phát triển giao thông: Có đường bờ biển dài 700 km và trên 360 nghìn km2 vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế. Có tiềm năng kết nối, thông qua các cảng tại TP. Hồ Chí Minh và cụm cảng Cái Mép - Thị Vải trên địa bàn tỉnh của Bà Rịa - Vũng Tàu, với các thị trường Đông Á, châu Âu, Mỹ... Đồng thời, vùng ĐBSCL nằm trong khu vực có các tuyến hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng.
- Thuận lợi phát triển nông nghiệp với hơn 2,5 triệu ha đất nông nghiệp (chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả vùng) được bồi đắp phù sa màu mỡ, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước, thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho 65% dân cư của vùng (chiếm 31,37% GDP toàn ngành nông nghiệp, đóng góp tới hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước).
- Bên cạnh đó, ĐBSCL có thế mạnh về phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, công nghiệp thực phẩm, đặc biệt phát triển du lịch quanh năm và các ngành dịch vụ khác.
- Đầu tư vào ĐBSCL ngày càng được quan tâm hơn: Tổng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước đầu tư qua địa phương vùng ĐBSCL ngày càng tăng; giai đoạn 2016-2020 đạt gần 200 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 9 tỷ USD) chiếm khoảng 16% tổng đầu tư ngân sách nhà nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của các bộ, ngành và địa phương hỗ trợ vùng ĐBSCL là trên 318 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 13,8 tỷ USD); tăng khoảng 5 tỷ USD so với thời kỳ trước, tập trung vào hạ tầng chiến lược. Có lẽ trong nhiệm kỳ này, ĐBSCLđược ưu tiên cao nhất và điều này là hoàn toàn xứng đáng.
- Đặc biệt, đây là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng anh hùng của nhân dân; là địa bàn sinh sống, gắn bó đoàn kết lâu đời của cộng đồng các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm... tự lực, tự cường; năng động, sáng tạo; chân tình, cởi mở, phóng khoáng.
Với những đặc điểm đó, ĐBSCL thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là "Vùng cực Nam - Thành đồng của Tổ quốc", cửa ngõ phía Tây Nam của quốc gia, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng cần được phát huy cao hơn, và tiềm năng, lợi thế to lớn cần được phát triển thành nguồn lực, cần được khai thông, tháo gỡ có hiệu quả hơn nữa.
3. Về những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức
Tuy vậy, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận, ĐBSCL vẫn còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức; chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của mình, tiềm năng thì lớn nhưng cơ chế, chính sách còn hạn hẹp; phần đóng góp của vùng vào kết quả chung của cả nước vẫn còn hạn chế.
- Nếu lấy con người là trung tâm, chủ thể, động lực, mục tiêu, là nguồn lực cho sự phát triển của ĐBSCL thì đây cũng là điểm nghẽn lớn nhất. Đặc biệt là vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; nhất là cán bộ các cấp cần phải năng động, sáng tạo, tự tin, tận tụy, trăn trở nhiều hơn nữa. Nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, tỉ lệ lao động vùng qua đào tạo khoảng hơn 15%, thấp hơn nhiều so với trung bình chung cả nước (năm 2020, cả nước có tỉ lệ 64,5% lao động qua đào tạo, trong đó tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ đạt 24,5%).
- Quy mô kinh tế nhỏ chỉ chiếm 12,08% GDP của cả nước; thu nhập bình quân đầu người bằng khoảng 67% so với bình quân chung cả nước (53,98 triệu đồng so với 80,21 triệu đồng/người). Tỉ lệ đô thị hóa thấp hơn cả nước (27,2%, cả nước là 40,5%).
- Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, thiếu và yếu: Trước hết, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, chất lượng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, chuyển tải của cải vật chất được sản xuất tại vùng ra cả nước và thế giới; thiếu cảng biển nước sâu để kết nối với quốc tế; thiếu các trung tâm tiếp vận và kho vận của vùng; giao thông đường thủy nội địa chưa được phát huy; hạ tầng thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn. Hạ tầng về y tế, giáo dục còn chưa đồng đều, yếu kém ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
- Không đồng đều về môi trường đầu tư kinh doanh; các chỉ số về cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, chuyển đổi số thấp hơn so với các vùng khác trong cả nước. Liên kết vùng còn chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả.
- Thu hút FDI còn thấp (đứng thứ 4/6 các vùng), đầu tư tư nhân chưa nhiều. Xây dựng nông thôn mới còn chậm, số xã đạt chuẩn nông thôn mới là 48,29%, trong khi cả nước đạt 54%.
- Du lịch, dịch vụ chưa phát triển: Phần lớn các địa phương mới chỉ tập trung khai thác sản phẩm du lịch sông nước, miệt vườn, thiếu cơ sở lưu trú chất lượng cao để đón khách quốc tế và các dịch vụ khác liên quan du lịch.
- Cải cách hành chính, chuyển đổi số chưa thực sự mạnh mẽ và hiệu quả, cần rất nhiều sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư thỏa đáng, phù hợp, hiệu quả.
- Là một trong những khu vực địa lý chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu trên thế giới, như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn do mực nước biển dâng cao, sạt lở bờ sông, nước dâng do bão lũ và các rủi ro liên quan đến khí hậu khác…
- Tinh thần tự tin, tự lực, tự cường vươn lên từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của vùng cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.
4. Về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển vùng ĐBSCL
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL, như: Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu; Nghị quyết số 78/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị; Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 324/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL… Từ đầu nhiệm kỳ tới nay, chúng ta cũng đã tổ chức rất nhiều hội nghị, hội thảo để bàn về ĐBSCL.
- Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ cũng có cơ chế, chính sách đặc thù cho Cần Thơ - trung tâm của vùng: Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 45/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết 98/NQ-CP của Chính phủ về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045…
- Đã thành lập Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025 do đồng chí Lê Văn Thành, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch và 4 Bộ trưởng làm Phó Chủ tịch; kèm theo là quy chế hoạt động. Đây là Hội đồng điều phối vùng đầu tiên của cả nước.
Như vậy, từ chủ trương của Đảng tới việc thể chế hóa bằng các cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bố trí nguồn lực, tổ chức thực hiện… với ĐBSCL đều có hệ thống và rất tích cực, vấn đề là các địa phương, các bộ ngành, tổ chức quốc tế cùng Chính phủ tổ chức thực hiện có hiệu quả, thực chất.
5. Về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đưa ra 6 quan điểm phát triển ĐBSCL; trong đó tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Yêu cầu phải phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với vị trí, vai trò chiến lược của vùng; coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt, trọng tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các địa phương trong vùng và cả nước. Phải đặt vấn đề phát triển vùng trong tổng thể phát triển chung của cả nước, bảo đảm phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, thống nhất với hệ thống quy hoạch quốc gia; phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, thích ứng với biến đổi khí hậu…
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể: Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Quy mô nền kinh tế đến năm 2030 gấp 2 - 2,5 lần so với năm 2021. Tỉ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng thu nhập vùng (GRDP) khoảng 20%; công nghiệp - xây dựng khoảng 32%; dịch vụ khoảng 46%; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 146 triệu đồng/người/năm. Tỉ lệ đô thị hóa đạt 42 - 48%; có 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 30% số xã đạt chuẩn nâng cao.
Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, chúng ta cần có cách tiếp cận tổng thể; triển khai với những biện pháp, giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu lực, hiệu quả. Tôi cơ bản thống nhất với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đồng chí. Với tinh thần "Cả nước vì vùng và vùng vì cả nước" như chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi đề nghị:
(1) Về quan điểm chỉ đạo chung
- Cần quán triệt nghiêm túc, thực hiện quyết liệt, hiệu quả, thực chất các nhiệm vụ, giải pháp đề ra nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng ĐBSCL theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành (Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn; Chiến lược quốc gia phòng, chống thiên tai; Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp; 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi); Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu…). Các địa phương phải cụ thể hóa và tập trung chỉ đạo, lãnh đạo, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, sự đồng lòng ủng hộ của Nhân dân, bạn bè quốc tế.
- Theo dõi sát, nắm chắc tình hình và yêu cầu thực tiễn. Công tác chỉ đạo, điều hành phải bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Đặc biệt coi trọng việc thích ứng với tự nhiên. Kiên định mục tiêu xuyên suốt nhưng phải hết sức linh hoạt, sáng tạo, bảo đảm hiệu quả, kịp thời. Đồng thời, xác định một số trọng tâm, trọng điểm; làm đến đâu thì phải chắc đến đó, việc nào phải xong việc đó.
- Phát huy mạnh mẽ các yếu tố nội lực, nhất là con người, truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa, tinh thần tự lực, tự cường, đi lên từ bàn tay, khối óc, khung trời, mảnh đất, cửa biển của mình, kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa nguồn lực bên trong (với ba trụ cột là con người, thiên nhiên, truyền thống văn hóa-lịch sử) là cơ bản, lâu dài, chiến lược, quyết định, với nguồn lực bên ngoài (gồm nguồn vốn, công nghệ, năng lực quản trị…) là quan trọng, đột phá, thường xuyên.
- Thống nhất nhận thức và hành động, phương châm là: Suy nghĩ phải kỹ lưỡng, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Đối với những vấn đề đột xuất, bất ngờ phải nắm bình tĩnh, bám sát thực tiễn và căn cứ chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để có giải pháp phù hợp, xử lý đạt hiệu quả cao nhất. Vấn đề càng khó, càng phức tạp thì càng phải giữ đúng nguyên tắc, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể, lắng nghe ý kiến của nhau, kể cả những ý kiến trái chiều để xem xét, quyết định.
- Tăng cường phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; có biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát hiệu quả việc triển khai của từng cấp. Khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh, kịp thời trong thực thi công vụ; có cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung theo đúng tinh thần Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị.
- Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Tinh thần là nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, người dân, doanh nghiệp được hưởng thụ thật. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trong sạch, tận tụy, vì Nhân dân phục vụ. Nói không với tham nhũng, tiêu cực.
(2) Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
Trước mắt, chúng ta cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
(2.1) Về công tác phòng, chống dịch: Tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (Nghị quyết 38/NQ-CP), không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, tạo thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Quyết liệt triển khai chiến lược tiêm vaccine, nhất là cho trẻ em từ 5 đến dưới 11 tuổi, tiếp tục tiêm mũi thứ 3, thứ 4, hoàn thành mục tiêu mà Chính phủ và Ban chỉ đạo quốc gia đã đề ra, bảo đảm an toàn, hiệu quả, kịp thời.
(2.2) Tập trung xây dựng các kế hoạch và đầu tư cơ sở vật chất nhằm đầu tư toàn diện cho giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường xây dựng các trường đào tạo nghề nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động, nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề, đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư; xây dựng các trường đại học có thương hiệu trong nước và khu vực.
(2.3) Về triển khai Quy hoạch vùng ĐBSCL: Các địa phương vùng ĐBSCL cần tích cực triển khai quy hoạch vùng, coi đây là nhiệm vụ trong tâm trong thời gian tới; chủ động, quyết liệt hơn nữa trong việc triển khai các nhiệm vụ, chương trình, dự án đã được xác định trong quy hoạch; khẩn trương xây dựng, hoàn thành quy hoạch của từng địa phương.
Tinh thần là quy hoạch phải đi trước một bước, tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, sát thực tế, khả thi, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn, đồng thời tạo ra động lực mới, thu hút nguồn lực mới cho phát triển. Muốn phát triển tốt thì phải có quy hoạch tốt, vì quy hoạch tốt thì mới có chương trình, dự án tốt, có chương trình, dự án tốt thì mới có nhà đầu tư tốt.
(2.4) Về phát triển hạ tầng: Trong giai đoạn tới, cần tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông và logistic, hạ tầng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, hạ tầng giáo dục, y tế, hạ tầng chuyển đổi số, chống biến đổi khí hậu để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL. Trong đó, các tuyến cao tốc cần đi theo hướng tuyến thẳng nhất, ngắn nhất có thể, theo tinh thần "qua sông thì bắc cầu, qua núi thì đào hầm và qua đồng ruộng thì đổ đất"; không bám theo các khu dân cư để tránh phải dành chi phí lớn cho giải phóng mặt bằng, không tác động lớn tới đời sống người dân và tạo ra không gian phát triển mới. Các địa phương cần nâng cao tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường; nâng cao chất lượng quản trị, năng lực điều hành; chịu trách nhiệm đối với công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư; thúc đẩy triển khai các dự án hạ tầng được giao trên địa bàn, bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Đẩy mạnh và đa dạng hóa các chuỗi cung ứng, chuỗi liên kết, chuỗi sản xuất; ứng dụng khoa học công nghệ trong công nghiệp chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch với vùng vựa nông, thủy sản lớn nhất cả nước ở vùng ĐBSCL.
(2.5) Đẩy mạnh hợp tác công tư và giải ngân vốn đầu tư công: Các bộ, ngành, địa phương phải cụ thể hóa Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, nhất là trong đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng chiến lược. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đôn đốc, kiểm tra, giám sát chặt việc thực hiện. Đa dạng hóa nguồn tài chính, đẩy mạnh hợp tác công tư; huy động, kích hoạt mọi nguồn lực cho đầu tư, phát triển, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân có trọng tâm, trọng điểm, phát triển các mô hình: Lãnh đạo công - quản trị tư; đầu tư công - quản lý tư; đầu tư tư - sử dụng công.
(2.6) Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bình đẳng, thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Tận dụng sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Các địa phương cần tập trung nâng cao các chỉ số về cải cách hành chính, năng lực cạnh tranh, chuyển đổi số (PAPI, PAR Index, PCI, DTI…); tăng cường thu hút các dự án đầu tư từ trong và ngoài nước, tập trung vào những lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế của vùng.
(2.7) Khơi dậy và phát huy cao độ các giá trị truyền thống văn hoá, lịch sử, cách mạng hào hùng của quê hương, quan tâm đến an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Quan tâm đầu tư cho giáo dục và y tế, nhất là y tế dự phòng và y tế cơ sở, các chính sách xã hội, chăm lo các đối tượng chính sách, gia đình có công với cách mạng, Mẹ Việt Nam Anh hùng, người nghèo, trẻ em khó khăn, người yếu thế trong xã hội.
(2.8) Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; chủ động ứng phó, không để bị động, bất ngờ; giữ vững an ninh biên giới, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh, an toàn, an dân. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế, phát triển mạnh kinh tế đối ngoại; tăng cường hợp tác chặt chẽ với các tỉnh biên giới.
(2.9) Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
(2.10) Có chương trình, giải pháp cụ thể để bảo vệ môi trường; không đánh đổi môi trường để đổi lấy tăng trưởng đơn thuần. Tăng cường đổi mới và ứng dụng khoa học, công nghệ; đẩy mạnh chống biến đổi khí hậu, nhất là chống sạt, lún, xâm nhập mặn, triều cường; bảo vệ nguồn nước, nguồn lợi thủy sản. Thúc đẩy chuyển đổi năng lượng sạch, tập trung phát triển điện gió, điện mặt trời.
(3) Một số ý kiến đối với các bộ, ngành, nhà tài trợ, đối tác chiến lược và cơ quan thông tấn, báo chí
- Các bộ, ngành cần phải phối hợp chặt chẽ, thực hiện quyết liệt, thực chất, hiệu quả các nghị quyết, quy hoạch, kế hoạch hành động về phát triển ĐBSCL theo thẩm quyền, nếu gặp khó khăn, vướng mắc thì cùng thảo luận, bàn bạc, tập trung giải quyết.
- Đề nghị các đối tác phát triển, các nhà khoa học, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục chung tay, chung sức, đồng lòng, đồng hành cùng Chính phủ trong các hoạt động phát triển ĐBSCL thịnh vượng và thích ứng với biến đổi khí hậu; tích cực hỗ trợ vào cả từ quá trình xây dựng quy hoạch đến tài trợ các chương trình, dự án ODA, vay vốn ưu đãi nước ngoài nhằm triển khai thực hiện quy hoạch vùng, địa phương; nghiên cứu, tìm thấy và khai thác, tận dụng cơ hội để phát triển, tham gia sâu vào những ngành kinh tế được xác định là trọng tâm, ưu tiên của vùng trong một chiến lược mang tính dài hạn.
- Đối với các cơ quan thông tấn, báo chí: Tích cực truyền thông, quảng bá về vùng đất, con người, văn hóa, lịch sử, về tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh, thành phố nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung. Góp phần tích cực vào quảng bá du lịch, xúc tiến đầu tư cho vùng.
Thưa toàn thể các đồng chí, quý vị đại biểu!
6. Tôi tin tưởng rằng với sự quyết tâm và vào cuộc quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự ủng hộ của các bạn bè quốc tế, trong thời gian tới, vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá. ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến; thu nhập của người dân ngày một nâng cao; người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, có thể làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu, đảm bảo thích ứng, an toàn trước thiên tai; tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hợp lý; đa dạng sinh học và truyền thống văn hóa lịch sử, văn hóa sông nước, văn hóa bản địa đa dạng được duy trì và tôn tạo.
Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, tôi ghi nhận, đánh giá cao, trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự hợp tác, hỗ trợ quý báu của các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài đã quan tâm, lựa chọn Việt Nam nói chung, vùng ĐBSCL nói riêng là điểm đến hỗ trợ, đầu tư kinh doanh trên tinh thần "cùng thắng".
Tôi mong rằng, thông qua Hội nghị này, sẽ có thêm nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế quan tâm, lựa chọn và quyết định đầu tư tại vùng ĐBSCL, vì lợi ích của nhà đầu tư, doanh nghiệp, đồng thời góp phần vào sự phát triển của vùng ĐBSCL và đất nước Việt Nam.
Chúc toàn thể qúy vị đại biểu, khách quý sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!
*Tiêu đề do Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ đặt
TTTCTT