Tọa đàm định giá carbon - Nguồn lực định hình chiến lược khí hậu của Việt Nam Thị trường tín chỉ carbon: Lĩnh vực kinh doanh tỷ đô Xác định công cụ định giá carbon |
Ngày 17/10, Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Ngozi Okonjo-Iweala cho biết, WTO quyết định thành lập nhóm công tác xây dựng một phương pháp xác định giá carbon toàn cầu nhằm đảm bảo rằng các kế hoạch đánh thuế nhập khẩu dựa trên lượng khí thải carbon không gây bất công cho các nước đang phát triển.
Bà Okonjo-Iweala cho biết, giá carbon toàn cầu rất quan trọng để cho phép các nước đang phát triển tiếp tục cạnh tranh khi châu Âu áp dụng thuế nhập khẩu dựa trên lượng khí thải CO2 của một số hàng hóa nhằm nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu. Một số thành viên WTO coi thuế là một biện pháp bảo hộ, trong khi các quốc gia khác không có công cụ để xác định giá carbon trong hàng xuất khẩu của họ. Do đó, WTO cần xây dựng một phương pháp tính giá carbon toàn cầu mà mọi quốc gia đều có thể tham gia.
Trên cơ sở đó, WTO đã đề xuất thành lập nhóm công tác đa phương nhằm tạo ra một phương pháp toàn cầu về định giá carbon. Tất cả các Bộ trưởng Tài chính đã đồng ý thành lập nhóm này. Các nước châu Phi trong lịch sử đã tạo ra khoảng 3% lượng khí thải toàn cầu, điều đặc biệt quan trọng là tránh trừng phạt các quốc gia trên lục địa này trong nỗ lực của châu Âu hướng tới một tương lai ít carbon hơn.
Ủy ban châu Âu cho biết, thuế biên giới phù hợp với các quy định của WTO. Tổng giám đốc Okonjo-Iweala cho biết "không có quy định nào của WTO chống lại việc cố gắng đạt mức 0 ròng" miễn là điều đó không ngăn cản những người khác cạnh tranh.
Giá carbon toàn cầu rất quan trọng để cho phép các nước đang phát triển tiếp tục cạnh tranh khi châu Âu áp dụng thuế nhập khẩu dựa trên lượng khí thải CO2 của một số hàng hóa nhằm nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu. Một số thành viên WTO coi thuế là một biện pháp bảo hộ, trong khi các quốc gia khác không có công cụ để xác định giá carbon trong hàng xuất khẩu của họ.
Việc định giá carbon toàn cầu là cần thiết trong bối cảnh hệ thống thương mại toàn cầu đang chứng kiến sự thay đổi đáng kể: Lần đầu tiên, một cường quốc thương mại lớn đã áp thuế nhập khẩu đối với carbon. Vì việc sử dụng từ “thuế” (hoặc “thuế quan”) sẽ gây khó xử nên Liên minh châu Âu đã sử dụng “Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon” (CBAM). Nhưng bản chất vẫn là EU đã đánh thuế nội bộ đối với carbon.
Theo Hệ thống Thương mại khí thải (ETS), các nhà máy điện và cơ sở công nghiệp lớn phải trả tiền cho mỗi tấn carbon dioxide mà họ thải ra. Với giấy phép phát thải hoặc “trợ cấp” có giá khoảng €90 ($95) mỗi tấn, ETS sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để các công ty phát thải ít hơn trong biên giới EU.
Hiện tại, CBAM đang trong giai đoạn chuyển tiếp ban đầu, trong đó các nhà nhập khẩu EU chưa nộp thuế carbon nhưng đang điều chỉnh chính sách của họ và báo cáo lượng khí thải phát sinh trong quá trình sản xuất hàng hóa mà họ đưa vào khối. Ngoài việc tạo cơ hội cho các nhà nhập khẩu chuẩn bị, giai đoạn này còn mang lại cho các nhà lãnh đạo châu Âu không gian để làm dịu đi sự phản đối chính trị từ các đối tác thương mại lớn của họ.
Những đối tác đó cũng có thể tận dụng thời gian này để khởi kiện CBAM tại WTO. Nhưng một khi EU chấm dứt miễn trừ thuế, có vẻ như mức thuế này sẽ tương thích với WTO. Hơn nữa, nó không tạo thành một trở ngại lớn cho thương mại. Nó sẽ chỉ áp dụng cho một số ít và khá khác nhau các sản phẩm sử dụng nhiều carbon và dễ bị rò rỉ carbon: xi măng, sắt thép, nhôm, phân bón, điện và hydro. Và phần lớn đây không phải là những mặt hàng được buôn bán rộng rãi.
Nhìn chung, CBAM chỉ bao gồm khoảng 3% tổng số hàng hóa nhập khẩu vào EU, với tổng giá trị chỉ 50-60 tỷ euro hàng năm. Trong khi các đối tác thương mại của EU sẽ phàn nàn, đặc biệt là về việc đưa vào các sản phẩm thép, thì đối với hầu hết các quốc gia, CBAM sẽ gây khó chịu ở mức độ nhẹ. Đối với một số nhà nghiên cứu về biến đổi khí hậu, đây chính xác là vấn đề: CBAM không bao gồm phạm vi sản phẩm đủ rộng hoặc tỷ lệ phát thải đủ lớn.
Nhưng mặc dù CBAM chiếm một phần nhỏ trong tổng lượng nhập khẩu, những sản phẩm này chiếm gần một nửa (47%) mức cho phép phát thải miễn phí hiện được cấp cho ngành công nghiệp châu Âu. Do đó, CBAM sẽ có lợi cho công chúng.
Người ta ước tính rằng hàng nhập khẩu nằm trong phạm vi điều chỉnh của CBAM bao gồm lượng phát thải trực tiếp khoảng 80 triệu tấn CO2. Với mức giá ETS là €90/tấn, điều này có nghĩa là doanh thu hàng năm khoảng €7,2 tỷ, sẽ đi thẳng vào ngân sách EU và cung cấp không gian rất cần thiết cho các khoản chi tiêu khác, chẳng hạn như hỗ trợ cho Ukraine.
Duy Hưng