Bộ Tài chính vừa hoàn thiện và có công văn gửi Bộ Tư pháp lấy ý kiến thẩm định về dự án Nghị định sửa đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng xăng thuộc nhóm 27.10.
Điều chỉnh giảm xuống 10% thay vì 12%
Trước diễn biến tăng cao của giá xăng dầu thế giới, trong khi nguồn cung trong nước gặp sự cố kỹ thuật nên Bộ Tài chính đã sớm dự thảo nghị định Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Hiện Bộ Tài chính đã nhận được 63 công văn tham gia ý kiến của các đơn vị liên quan, trong đó có 16 bộ, cơ quan ngang bộ; 39 UBND các tỉnh, thành phố; VCCI; Hiệp hội Xăng dầu…. Bộ Tài chính đang tổng hợp ý kiến tham gia của bộ, ngành, địa phương để trình Chính phủ xem xét ban hành.
Tuy nhiên, do dự thảo Nghị định sửa đổi nhiều nội dung phức tạp, quy mô lớn, có tính kỹ thuật (Biểu thuế gần 1000 trang) nên cũng cần phải rà soát kỹ. Bên cạnh đó, sau khi dự thảo được gửi xin ý kiến đã phát sinh thêm một số vấn đề cần phải tiếp tục tham vấn các đơn vị có liên quan.
Hiện giá dầu thô thế giới và giá xăng dầu thành phẩm Việt Nam còn ở mức cao, tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Việc xây dựng Dự án Nghị định theo trình tự, thủ tục thông thường sẽ không đảm bảo tính kịp thời, nhất là trong bối cảnh thị trường xăng dầu còn diễn biến phức tạp. Do đó, Bộ Tài chính đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị cho phép tách nội dung điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với mặt hàng xăng để ban hành một nghị định riêng theo trình tự, thủ tục rút gọn để có thể áp dụng hiệu lực ngay, tạo điều kiện cho các DN trong việc tìm nguồn cung.
Vì xăng dầu vừa là mặt hàng chiến lược, quan trọng, vừa là mặt hàng thiết yếu, có tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội của người dân, tác động trực tiếp đến ổn định kinh tế vĩ mô, việc giá xăng dầu tăng cao và thiếu hụt nguồn cung xăng dầu sẽ gây áp lực lớn đến chi phí sản xuất kinh doanh của DN cũng như chi tiêu của người dân. Gián đoạn nguồn cung xăng dầu còn có thể gây đình trệ các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN, tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội.
Theo đó, Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với mặt hàng xăng động cơ, không pha chì (thuộc mã HS từ 2710.12.21 đến 2710.12.29) từ 20% xuống 10% thay cho phương án trước đó đã gửi xin ý kiến (giảm từ 20% xuống 12%).
Đảm bảo dư địa để đàm phán các FTA
Theo Bộ Tài chính, việc điều chỉnh này vẫn đảm bảo có được dư địa để đàm phán các FTA mới trong tương lai và không phát sinh nghĩa vụ của Việt Nam trong các cam kết quốc tế.
Đối với mặt hàng xăng động cơ, có pha chì, hiện nay gần như không có kim ngạch nhập khẩu và trong nước cũng không còn được phép sản xuất, sử dụng mặt hàng này nên Bộ Tài chính đề nghị giữ như mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN như hiện hành.
Đối với mặt hàng dầu, Bộ Tài chính trình Chính phủ tiếp tục áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 7% như hiện hành để không phát sinh nghĩa vụ của Chính phủ trong cam kết GGU với Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn. Hiện mức thuế nhập khẩu FTA đối với dầu trong khuôn khổ Hiệp định ATIGA với các nước ASEAN và Hiệp định FTA với Hàn Quốc đã được giảm về 0% nên kim ngạch nhập khẩu theo thuế suất thuế nhập khẩu MFN là không đáng kể.
Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định Nghị định có hiệu lực kể từ ngày ký để sớm áp dụng ngay, đồng thời không quy định thời hạn áp dụng. Bởi, theo lộ trình cam kết thì thuế suất FTA của mặt hàng xăng tại Hiệp định ATIGA sẽ được giảm xuống còn 5% vào năm 2023 và về 0% vào năm 2024 nên việc quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN 10% đối với mặt hàng xăng để áp dụng ổn định cũng là phù hợp, đảm bảo sự chênh lệch hợp lý giữa thuế suất MFN và thuế suất FTA đối với mặt hàng xăng. Trường hợp thị trường xăng dầu thế giới có biến động bất thường dẫn đến việc phải điều chỉnh lại mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với mặt hàng xăng, Bộ Tài chính sẽ kịp thời báo cáo Chính phủ phương án điều chỉnh phù hợp.
Không tác động nhiều đến thu ngân sách
Theo Bộ Tài chính, hiện nay tỷ trọng thuế trong giá cơ sở xăng dầu của nước ta vẫn thấp hơn mức bình quân chung so với nhiều nước trong khu vực. Tỷ trọng thuế trong giá cơ sở xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng 40% - 55% đối với xăng và 35% - 50% đối với dầu (ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn thì có tỷ trọng thấp hơn). Trong khi đó, ở nước ta, với mức thuế BVMT đang được giảm về mức sàn, thì tỷ trọng thuế trong giá cơ sở xăng dầu vào khoảng 19,39% đối với xăng E5RON92, 21,95% đối với xăng RON95 và khoảng 11,05% đối với dầu diesel.
Theo tính toán, với việc tỷ trọng xăng E5RON92 và xăng RON95 nhập khẩu chỉ chiếm tương ứng 14,36% và 31,7% lượng xăng tiêu thụ trong nước (tính theo số liệu quý II/2022) và hiện nay xăng đang được nhập khẩu chủ yếu từ các quốc gia đã ký kết Hiệp định FTA với Việt Nam nên việc giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN xuống 10% tuy có thể góp phần giảm giá xăng trong nước nhưng cũng chỉ ở mức thấp.
Tuy nhiên, việc điểu chỉnh giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác động lớn tới sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của người dân; tạo điều kiện cho DN có thể nhập khẩu xăng từ nhiều quốc gia khác, qua đó thúc đẩy tính cạnh tranh để giảm giá mặt hàng này.
Đối với tác động về thu ngân sách nhà nước (NSNN), theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2021, tổng kim ngạch nhập khẩu có thuế mặt hàng xăng dầu của nước ta là 475,26 triệu USD, trong đó nhập khẩu từ các nước có ký kết Hiệp định FTA với nước ta là 474,1 triệu USD (chiếm 99,7%). Riêng 5 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch nhập khẩu có thuế mặt hàng xăng là 826,53 triệu USD và cơ bản cũng được nhập khẩu từ các nước có ký kết hiệp định FTA với nước ta.
Như vậy, có thể thấy với tỷ trọng xăng nhập khẩu theo thuế suất thuế nhập khẩu MFN hiện nay là thấp. Trong trường hợp các điều kiện khác không thay đổi thì việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với mặt hàng xăng theo phương án dự kiến cơ bản sẽ không có nhiều tác động đến thu NSNN. Trường hợp việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN mặt hàng xuống 10% dẫn đến việc DN chuyển hướng sang nhập khẩu các sản phẩm này từ các quốc gia khác ngoài ASEAN, Hàn Quốc, thì có thể làm tăng thu NSNN. Tuy nhiên, mức tăng thu sẽ còn phụ thuộc vào diễn biến thị trường và khả năng tiếp cận nguồn cung cũng như xu hướng chuyển hướng nhập khẩu của DN sang các thị trường mới.
Thanh Thanh