Chuyên gia nhận định về lạm phát và đề xuất chiến lược nhằm giảm thiểu tác động khi giá dầu tăng

25/07/2025 - 22:48
(Bankviet.com) Trong bối cảnh giá dầu tăng vọt thời gian gần đây, các giảng viên ngành kinh tế trường Đại học RMIT Việt Nam đã đưa ra nhận định về lạm phát và đề xuất chiến lược nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực.

Biến động giá dầu thế giới tác động đến lạm phát tại Việt Nam

Đợt tăng giá dầu gần đây trên thị trường toàn cầu, có lúc vượt mốc 80 USD/thùng, chủ yếu do căng thẳng địa chính trị leo thang tại Trung Đông và lo ngại ngày càng tăng về khả năng phong tỏa eo biển Hormuz - tuyến đường chiến lược mà hơn 20% nguồn cung dầu toàn cầu đi qua. Dù tín hiệu hạ nhiệt từ Iran đã khiến giá dầu giảm về mức 65-70 USD/thùng, cú sốc ban đầu vẫn tiếp tục tác động đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.

Tháng 6/2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam tăng 0,48% so với tháng trước đó và hơn 3,57% so với cùng kỳ năm trước. Dù mức tăng vẫn nằm trong tầm kiểm soát theo mục tiêu Quốc hội đề ra nhưng con số này phản ánh áp lực lạm phát do chi phí đẩy vẫn đang tồn tại. Nguyên nhân chính là chi phí năng lượng tăng cao, đặc biệt là nhiên liệu nhập khẩu, một yếu tố then chốt trong toàn bộ chuỗi cung ứng của Việt Nam.

hinh-2.jpg
TS. Vũ Thị Hồng Nhung (trái) và TS. Phan Thanh Chung (phải), Đại học RMIT Việt Nam

TS. Vũ Thị Hồng Nhung, Giảng viên Khoa Kinh doanh tại Đại học RMIT Việt Nam, cho biết: “Việt Nam từ lâu đã dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc về giá dầu. Dù có xuất khẩu một lượng dầu thô nhất định nhưng năng lực lọc dầu còn hạn chế và trữ lượng khiêm tốn trong nước khiến chúng ta vẫn phải phụ thuộc không nhỏ vào việc nhập khẩu các sản phẩm dầu tinh chế”.

Chính sự phụ thuộc cơ cấu này khiến nền kinh tế rất nhạy cảm với biến động giá dầu thế giới. “Khi giá dầu toàn cầu tăng, chi phí nhiên liệu trong nước bị tác động nhanh chóng, lan qua các lĩnh vực vận tải, logistics, sản xuất và đến giá cả tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng”, TS. Nhung nhận định.

Để minh chứng cho nhận định trên, TS. Nhung đưa ra dẫn chứng: Khoảng 9,67% rổ CPI của Việt Nam thuộc nhóm giao thông bao gồm dịch vụ vận tải. Trong khi đó, thực phẩm và dịch vụ ăn uống chiếm khoảng 33,56% và cũng là nhóm mặt hàng tiêu tốn nhiều năng lượng, khiến giá của chúng rất nhạy với biến động chi phí nhiên liệu. Xăng và dầu diesel là những loại nhiên liệu được dùng phổ biến trong hệ thống vận tải nội địa, đồng thời được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như xay xát lúa gạo, tàu đánh cá và hệ thống tưới tiêu. Chi phí logistics chiếm 10-15% chi phí sản xuất ở nhiều ngành, giá phân bón cũng gắn chặt với giá dầu và khí đốt thế giới. Đây không phải là các mối liên hệ mang tính lý thuyết mà là thực tế đã được chứng minh hết lần này đến lần khác.

Năm 2008, khi giá dầu toàn cầu đạt mức kỷ lục 147 USD/thùng, chỉ số lạm phát trong 8 tháng đầu năm 2008 của Việt Nam đã tăng 21,65% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong hơn một thập kỷ, chủ yếu do giá nhiên liệu và thực phẩm tăng mạnh, cộng với việc từng bước bỏ trợ giá nhiên liệu.

Năm 2011, Mùa xuân Ả Rập khiến giá dầu tăng lên 120 USD/thùng, khi đó, lạm phát tại Việt Nam đến hết tháng 4/2011 tăng lên 17,51% so với cùng kỳ năm trước.

Gần đây nhất, vào đầu năm 2022, giá dầu tiến sát mức 120 USD/thùng vào tháng 3/2022 do xung đột Nga-Ukraine, tỷ lệ lạm phát tháng 3/2022 ở Việt Nam tăng 2,41% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát tiếp tục tăng lên 3,37% vào tháng 6/2022.

Những ví dụ trong quá khứ nêu bật các rủi ro hiện tại. Mặc dù giá dầu đã hạ nhiệt so với đỉnh gần đây, chi phí năng lượng và logistics vẫn ở mức cao. TS. Nhung chỉ ra rằng: “Căng thẳng địa chính trị hoàn toàn có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào, đẩy giá dầu tăng và tái kích hoạt lạm phát”.

Bà cũng lưu ý, nếu không có các biện pháp chính sách đủ mạnh làm “đệm đỡ”, nền kinh tế sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng từ những cú sốc đột ngột. Biến động giá này ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua của người dân, đặc biệt là nhóm thu nhập thấp và làm thu hẹp dư địa chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.

Các biện pháp chính sách nhằm giảm tác động

Để giảm bớt tác động, TS. Phan Thanh Chung, Giảng viên Kinh tế tại Đại học RMIT nhấn mạnh rằng, Việt Nam cần một chiến lược chính sách 2 chiều, đó là: biện pháp ngắn hạn để ứng phó tức thời và cải cách dài hạn để nâng cao khả năng tự phục hồi trước biến động năng lượng.

Tạm thời giảm thuế môi trường và thuế nhập khẩu nhiên liệu có thể giúp giảm giá bán lẻ. Đồng thời, cần tăng cường Quỹ bình ổn giá xăng dầu để có công cụ điều tiết khi giá tăng đột biến. Hỗ trợ trực tiếp như trợ cấp tiền mặt hoặc phiếu mua nhiên liệu, nên tập trung vào các hộ thu nhập thấp, nông dân và lao động trong ngành vận tải - những nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Ngoài ra, miễn hoặc giảm thuế cho các ngành sử dụng nhiên liệu nhiều như logistics và thủy sản cũng sẽ giúp giảm chi phí đầu vào.

Để tránh tạo thêm áp lực tài chính cho doanh nghiệp trong giai đoạn bất ổn, TS. Chung cho rằng, Chính phủ cũng nên cân nhắc trì hoãn triển khai các chính sách thuế hoặc phí quy định mới trên diện rộng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp có thêm thời gian điều chỉnh, thích nghi với chi phí vận hành tăng cao mà không bị thêm gánh nặng từ chính sách.

Về phía chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước nên giữ lập trường thận trọng, cân bằng giữa mục tiêu kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng. Đồng thời, có giải pháp giúp nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận tín dụng để ứng phó với chi phí năng lượng.

Về dài hạn, vấn đề mấu chốt là cần cải cách cơ cấu. “Đa dạng hóa nguồn năng lượng bằng cách đẩy nhanh phát triển năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió và năng lượng sinh khối sẽ giúp giảm phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu”, TS. Chung nhấn mạnh.

Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng cũng sẽ giúp giảm áp lực từ phía cầu. Mở rộng thăm dò dầu khí trong nước và xây dựng kho dự trữ dầu chiến lược sẽ tăng cường an ninh năng lượng. Đồng thời, đầu tư vào hệ thống giao thông công cộng và hạ tầng đô thị sẽ giúp giảm tiêu thụ nhiên liệu trong dài hạn.

Phạm Dung

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ