Đánh giá mức độ sẵn sàng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 tại Việt Nam

06/03/2025 - 21:04
(Bankviet.com) Nghiên cứu này được thực hiện nhằm ước lượng mức độ sẵn sàng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 tại Việt Nam dựa trên 413 mẫu khảo sát theo phương pháp One-and-One Half Bound Dichotomous Choice. Thông qua việc xử lý dữ liệu với phần mềm R, kết quả nghiên cứu đã ước lượng được giá trị của mức độ sẵn sàng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 ở Việt Nam, đồng thời phân tích tác động của các yếu tố nhân khẩu học khác.

Tóm tắt: Xuất phát từ sự cần thiết về mặt thực tiễn, nghiên cứu này được thực hiện nhằm ước lượng mức sẵn sàng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 tại Việt Nam dựa trên 413 mẫu khảo sát theo phương pháp One-and-One Half Bound Dichotomous Choice. Thông qua việc xử lý dữ liệu với phần mềm R, kết quả nghiên cứu đã ước lượng được giá trị của mức sẵn sàng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 ở Việt Nam và đồng thời, phân tích tác động của các yếu tố nhân khẩu học khác.

Từ khóa: Mức độ sẵn sàng chi trả; giảm phát thải khí CO2; phương pháp đánh giá ngẫu nhiên; One-and-One Half Bound Dichotomous Choice; phần mềm R

ESTIMATING THE WILLINGNESS-TO-PAY FOR CO2 EMISSION REDUCTION IN VIETNAM

Abstract: Based on practical needs, this study is conducted to estimate the willingness-to-pay for CO2 reductions in Vietnam based on 413 survey samples using the One-and-One Half Bound Dichotomous Choice method. Through data analysing with R software, the research results estimate the value of willingness-to-pay for CO2 reductions in Vietnam and also, analyse the influence of other demographic factors.

Keywords: willingness-to-pay; CO2 reductions; Contingent Valuation Method; One-and-One Half Bound Dichotomous Choice; R software

1. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Biến đổi khí hậu và ô nhiễm không khí, đặc biệt là ô nhiễm không khí tại các khu đô thị lớn hiện nay là những vấn đề môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Đối mặt với thực trạng đó, Việt Nam đã xây dựng một lộ trình thực hiện giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu tổng quát nhằm giảm phát ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050. Cụ thể, Việt Nam đã ban hành nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu phát thải khí CO2 như: thuế, phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; chuyển đổi sử dụng năng lượng phát thải thấp; ban hành quy chuẩn quốc gia về chất lượng không khí, tiêu chuẩn khí thải cho các phương tiện vận tải; các giải pháp về tài chính xanh, trái phiếu xanh. Trong số đó, giải pháp huy động nguồn lực từ xã hội đóng góp cho việc bảo vệ môi trường cũng đồng thời đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù giải pháp này đã được đề cập đến, nhưng hiện vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào cho việc áp dụng công cụ này. Chính vì vậy, việc xác định được mức độ sẵn sàng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 ở Việt Nam sẽ là cơ sở có giá trị tham khảo tốt cho các nhà hoạch định chính sách để có thêm thông tin khi triển khai công cụ huy động nguồn lực đóng góp của người dân cho giảm phát thải. Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu này đã được thực hiện nhằm ước lượng mức độ sẵn sàng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 ở Việt Nam.

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:

2.1. Tổng quan nghiên cứu:

Mức độ sẵn sàng chi trả (WTP) được định nghĩa là mức giá tối đa mà một cá nhân sẵn sàng chi trả cho một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trong những hoàn cảnh cụ thể (Le Gall-Ely, 2009). Như vậy, WTP cho giảm phát thải khí CO2 có thể được định nghĩa là mức giá tối đa mà một cá nhân sẵn lòng chi trả cho mục đích giảm phát thải khí CO2. Trong các năm gần đây, nhiều nhà kinh tế và nhà phân tích chính sách đã đặc biệt quan tâm về vấn đề nghiên cứu WTP cho giảm phát thải khí CO2, phản ánh tầm quan trọng về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn của chủ đề nghiên cứu này. Nhìn chung, mặc dù các nghiên cứu về WTP cho giảm phát thải khí CO2 sử dụng nhiều các phương pháp khác nhau nhưng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method) vẫn là phương pháp phổ biến và được ứng dụng rộng rãi nhất khi nghiên cứu về vấn đề này. Trên cơ sở phân tích tổng quan các nghiên cứu liên quan, nhóm tác giả nhận thấy rằng mặc dù cùng tập trung vào một chủ đề nhưng kết quả và WTP giữa các nghiên cứu thường khác nhau, có thể được lý giải bởi sự khác biệt về bối cảnh và điều kiện nghiên cứu. Mặc dù các yếu tố nhân khẩu học (độ tuổi, trình độ học vấn, giới tính, thu nhập) đều được có ảnh hưởng đến WTP nhưng chiều hướng tác động của chúng lại không đồng nhất. Ví dụ, Rotaris và Danielis (2019) đã cho thấy nam giới ở Italy ít sẵn lòng chi trả hơn, trong khi Duan và cộng sự (2014) lại chỉ ra rằng nam giới Trung Quốc sẵn sàng chi trả nhiều hơn so với nữ giới. Hay xét về trình độ học vấn, mặc dù Duan và cộng sự (2014) không tìm thấy mối liên hệ nào đáng kể, nhưng theo Carlsson và cộng sự (2012), trình độ học vấn và WTP lại mối tương quan mạnh mẽ. Như vậy, có thể thấy từ những mâu thuẫn trong kết quả nghiên cứu trên là do bối cảnh nghiên cứu khác nhau có thể dẫn đến kết quả khác nhau. Chính vì vậy, có thể thấy rằng, việc mở rộng nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam, nơi chưa có bất cứ nghiên cứu nào đặc biệt tập trung vào vấn đề WTP cho giảm phát thải khí CO2, là một chủ đề nghiên cứu ý nghĩa và cần thiết.

2.2. Phương pháp One-and-One Half Bound Dichotomous Choice:

Kế thừa từ các nghiên cứu trước, nghiên cứu này được thực hiện dựa trên phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method) – một công cụ được ứng dụng phổ biến trong việc đánh giá WTP cho một hàng hoá không có giá trên thị trường (đặt biệt là các loại hàng hoá môi trường như: chất lượng không khí, giảm phát thải khí CO2,...). Trong các cách tiếp cận của phương pháp này, câu hỏi đóng dạng lựa chọn nhị phân (Dichotomous Choice) được công nhận rộng rãi là cách tiếp cận dễ dàng hơn cho người được phỏng vấn và hiệu quả hơn trong việc đánh giá WTP. Để có thể đánh giá chính xác được WTP dưới dạng câu hỏi lựa chọn nhị phân, phương pháp One-and-One-Half Bound Dichotomous Choice (OOHB DC) đã được đề xuất bởi Cooper và cộng sự (2002), nhằm khắc phục những hạn chế và giúp kết quả nghiên cứu đạt được hiệu quả thống kê cao hơn hình thức hỏi đơn (Single-Bounded) và đồng thời đạt được độ hiệu quả và tính nhất quán cao hơn hình thức hỏi kép (Double-Bounded). Để tính toán WTP dựa trên phương pháp OOHB, nghiên cứu này được tiến hành dựa trên hàm log-likelihood và công thức tính giá trị WTP trung bình xây dựng bởi Cooper và cộng sự (2002).

Câu hỏi đánh giá WTP theo phương pháp OOHB DC bao gồm hai phần chính: bối cảnh giả định và các lựa chọn. Bối cảnh giả định được đưa ra cho người được phỏng vấn là lựa chọn một mức sẵn lòng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 thông qua việc đóng góp cho Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam. Về các lựa chọn, dựa trên khảo sát thử nghiệm, 7 khoảng giá đã được xác định, bao gồm: (100.000; 200.000); (200.000; 350.000); (350.000; 500.000); (500.000; 850.000); (850.000; 1.400.000); (1.400.000; 2.000.000); (2.000.000; 3.000.000) với đơn vị là VND (1 USD tương đương 25.000 VND tại thời điểm khảo sát). Mỗi khoảng giá trên sẽ được phân bổ đều và ngẫu nhiên cho một số lượng người phỏng vấn nhất định. Về các lựa chọn, theo cách thức phỏng vấn của phương pháp OOHB, đáp viên sẽ nhận được một bộ giá bất kỳ gồm một giá cao và một giá thấp. Sau đó, đáp viên sẽ chọn một trong hai mức giá trong bộ đó (giá khởi điểm). Tùy thuộc vào câu trả lời của người tham gia, có hai khả năng tiếp theo: (1) Nếu người trả lời chọn mức giá thấp và trả lời "có", câu hỏi sẽ dừng lại. Nếu trả lời "không", họ sẽ được hỏi về mức giá thấp hơn. Như vậy, 6 kết quả có thể xảy ra là: “có-có”(YY); “có-không”(YN); “không”(N); “có”(Y); “không-có”(NY); “không-không”(NN).

2.3. Mô hình nghiên cứu:

Theo Aizaki và cộng sự (2022), khi áp dụng phân phối log-logistic, mô hình nghiên cứu WTP dựa trên phương pháp OOHB DC có thể được biểu diễn như sau:

untitled-3.jpg

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN:

Theo công thức tính mẫu của Yamane (1973), để khảo sát mang tính đại diện cho dân số Việt Nam, nghiên cứu này cần thu thập ít nhất 400 mẫu khảo sát. Nghiên cứu này áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng và chia tổng thể thành 3 nhóm cá nhân đang sinh sống và làm việc tại 3 miền: Bắc, Trung, Nam nhằm bao gồm đa dạng các thành phần nhân khẩu học cũng như tính đại diện cho đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hoá. Việc thu thập dữ liệu được tiến hành từ tháng 01/2025 đến tháng 02/2025 với những cá nhân nằm trong độ tuổi từ 18 trở lên. Kết thúc quá trình khảo sát, nhóm tác giả thu về được 422 phản hồi. Sau khi lọc và đánh giá dữ liệu, có 9 mẫu khảo sát không đạt yêu cầu do thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch. Như vậy, tổng số phản hồi hợp lệ cuối cùng là 413 (đạt tỷ lệ 97,86%). Thống kê đặc điểm nhân khẩu học của các câu trả lời được trình bày trong Bảng 1. Theo lý thuyết của phương pháp OOHB DC, 6 kết quả có thể xảy ra là: “có-có”(YY); “có-không”(YN); “không”(N); “có”(Y); “không-có”(NY); “không-không”(NN). Tần suất của các kết quả được trình bày trong Bảng 2.

Bảng 1: Mô tả đặc điểm nhân khẩu học

untitled-4.jpg
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả

Bảng 2: Thống kê tần suất các câu trả lời OOHB

untitled-5.jpg
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả

Nhằm phân tích dữ liệu thu thập bằng phương pháp OOHB DC, phương pháp Maximum Likelihood và phần mềm R 4.4.2 đã được sử dụng. Kết quả ước lượng được trình bày trong Bảng 3. Xét về tổng thể mô hình nghiên cứu, giá trị p-value bằng 0.000 cho thấy rằng mô hình bao gồm các biến nhân khẩu học này có ý nghĩa thống kê và hoàn toàn phù hợp so với mô hình đơn giản chưa bao gồm các biến độc lập khác. Với hệ số ước lượng âm, kết quả khảo sát cho thấy rằng khi biến log(BID) (mức giá) tăng lên, tỷ lệ người được hỏi đồng ý với mức giá đó sẽ càng giảm đi. Về các biến nhân khẩu học, kết quả trên cho thấy độ tuổi và giới tính đều có tác động ngược chiều đến WTP với mức ý nghĩa thống kê lần lượt tại 5% và 10%. Từ đó, có thể suy ra rằng, những người càng trẻ và là nữ giới thường có xu hướng sẵn lòng chi trả cho giảm phát thải khí CO2 hơn so với những người lớn tuổi và là nam giới tại Việt Nam (tương đồng với kết quả của Rotaris và Danielis (2019) về tác động của giới tính và độ tuổi). Bên cạnh đó, kết quả cũng đồng thời cho thấy rằng thu nhập và trình độ học vấn có tác động tích cực đến WTP lần lượt ở các mức ý nghĩa 1% và 5%. Kết quả này cũng đồng thời tương đồng với kết quả nghiên cứu trước đây của Carlsson và cộng sự (2012) về tác động của trình độ học vấn và nghiên cứu của Duan và cộng sự (2014) về tác động của thu nhập. Qua đó, có thể cho rằng, tại Việt Nam, những người là nữ giới, trẻ tuổi, có thu nhập và trình độ học vấn cao sẽ là nhóm đối tượng có xu hướng chi trả nhiều hơn cho mục tiêu giảm phát thải khí CO2 so với các nhóm đối tượng khác. Về ước lượng WTP, kết quả xử lý dữ liệu đã cho thấy mức WTP trung bình tại Việt Nam là 661,947.4 (khoảng 660.000 đồng). Như vậy, trung bình trong một năm, vào thời điểm khảo sát, một người Việt Nam sẵn sàng chi trả khoảng 660.000 đồng cho mục đích giảm phát thải khí CO2. Mức giá này có thể được hiểu là một khoản tiền chi trả tự nguyện trực tiếp thông qua từ thiện, quyên góp; hoặc gián tiếp thông qua việc chi trả thêm cho các sản phẩm giảm phát thải khí CO2; hoặc có thể là khoản tiền chi trả bắt buộc dưới dạng chi phí hoặc thuế phát thải đặt ra bởi Chính phủ.

Bảng 3: Kết quả phân tích dữ liệu bằng R

untitled-6.jpg
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả

3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ:

Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp OOHB DC nhằm đánh giá WTP của người Việt Nam cho giảm phát thải khí CO2. Kết quả ước lượng cho thấy, trung bình một người tiêu dùng ở Việt Nam sẵn sàng chi trả khoảng 660.000 đồng/năm cho mục đích giảm phát thải khí CO2. Trong đó, những người có trình độ học vấn và thu nhập càng cao, cũng như là nữ giới và trẻ tuổi sẽ càng có xu hướng sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho mục tiêu giảm phát thải khí CO2. Trong thực tiễn, các nhà hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp có thể dựa vào kết quả nghiên cứu này nhằm đưa ra những chiến lược, chính sách mới và phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình giảm phát thải ở Việt Nam.

Một là, kết quả về WTP cho giảm phát thải khí CO2 mà nghiên cứu này đưa ra cung cấp cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức nhằm đưa ra những chính sách hỗ trợ về giá cho sản phẩm giảm phát thải cũng như chính sách phù hợp nhằm kêu gọi ủng hộ từ cộng đồng cho mục tiêu giảm phát thải khí CO2.

Mặt khác, kết quả này cũng giúp cho các doanh nghiệp có thể hiểu hơn về WTP của một người ở Việt Nam dành cho mục tiêu giảm phát thải khí CO2 và dựa vào đó, các doanh nghiệp có thể đưa ra những chiến lược định giá sản phẩm xanh phù hợp hơn với phần lớn người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, theo tìm hiểu của nhóm tác giả, đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam sử dụng phương pháp OOHB DC nhằm đánh giá WTP, nói chung và WTP cho giảm phát thải CO2, nói riêng. Từ đó, dựa trên quy trình và kết quả nghiên cứu sử dụng phương pháp này, các doanh nghiệp cũng có thể ứng dụng phương pháp OOHB DC này trong việc khảo sát và đánh giá WTP của khách hàng thông qua các sản phẩm xanh, sản phẩm giảm phát thải của chính doanh nghiệp mình, nhằm tiết kiệm chi phí và đạt được độ chính xác cao.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Aizaki, H., Nakatani, T., Sato, K., & Fogarty, J. (2022), R package DCchoice for dichotomous choice contingent valuation: a contribution to open scientific software and its impact. Japanese Journal of Statistics and Data Science, 5(2), 871-884;

- Carlsson, F., Kataria, M., Krupnick, A., Lampi, E., Löfgren, Å., Qin, P., ... & Sterner, T. (2012), Paying for mitigation: A multiple country study. Land Economics, 88(2), 326-340;

- Cooper, J. C., Hanemann, M., & Signorello, G. (2002), One-and-one-half-bound dichotomous choice contingent valuation. Review of Economics and Statistics, 84(4), 742-750;

- Duan, H. X., Yan-Li, L., & Yan, L. (2014), Chinese public’s willingness to pay for CO2 emissions reductions: A case study from four provinces/cities. Advances in Climate Change Research, 5(2), 100-110;

- Le Gall-Ely, M. (2009), Definition, measurement and determinants of the consumer's willingness to pay: a critical synthesis and avenues for further research. Recherche et Applications en Marketing (English Edition), 24(2), 91-112;

- Rotaris, L., & Danielis, R. (2019). The willingness to pay for a carbon tax in Italy. Transportation Research Part D: Transport and Environment, 67, 659-673;

- Yamane, T. (1973), Statistics: An introductory analysis.

Nguyễn Minh Khoa, Nguyễn Anh Đức, Vương Thị Thuỳ Trang, Phạm Đức Minh, Ngô Gia Nam, Th.S Lê Huyền Trang

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ