Xuất khẩu hàng hóa trung gian của thế giới tăng 47% Thương mại số trong RCEP là tương lai của WTO? |
Trên thực tế, Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 12 của WTO (MC12) được kỳ vọng sẽ chứng kiến các nước phát triển một lần nữa cố gắng giành lấy lợi thế kinh tế lịch sử và ràng buộc thế giới đang phát triển về thương mại và môi trường. Mọi quốc gia cần phải nỗ lực hết mình để hướng tới một lộ trình phát triển carbon thấp. Nhưng bất kỳ quá trình xanh hóa nền kinh tế nào ở các nước đang phát triển phải đi đôi với tạo việc làm và tạo thu nhập thông qua sản xuất nhiều ‘sản phẩm xanh’ trong nước. Các quốc gia như Ấn Độ cần thiết lập các ngành công nghiệp, công nghệ và hệ thống của riêng họ để chống lại biến đổi khí hậu và không bị phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ các nước phát triển - một lựa chọn cực kỳ tốn kém.
Ảnh minh họa |
Tuy nhiên, các quy tắc ràng buộc có thể xuất hiện từ các cuộc đàm phán về thương mại và tính bền vững có thể buộc các nước đang phát triển trở nên phụ thuộc hoàn toàn vào các sản phẩm và công nghệ 'thân thiện với khí hậu' và carbon thấp được nhập khẩu. Có năm cách thức rộng rãi trong đó chương trình nghị sự thương mại bền vững có thể được thúc đẩy bởi các quốc gia phát triển:
Thứ nhất, có khả năng sẽ có một động lực mới để yêu cầu các nước thành viên WTO loại bỏ thuế hải quan đối với cái gọi là "hàng hóa môi trường". Mặc dù vấn đề này là một phần trong chương trình nghị sự của Vòng đàm phán Doha của WTO, nhưng thỏa thuận đã không có kết quả.
Thứ hai, với mục tiêu bề ngoài là nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, những người ủng hộ thương mại và liên kết bền vững đang thúc đẩy câu chuyện về một "nền kinh tế tuần hoàn". Điều này liên quan đến việc sửa chữa, tân trang và tái chế các vật liệu hiện có. Một yếu tố không thể thiếu của nền kinh tế tuần hoàn là việc nhấn mạnh vào việc loại bỏ các hạn chế và thúc đẩy thương mại hàng hóa tái sản xuất. Đề xuất này cũng đã được thảo luận trong Vòng đàm phán Doha và bị nhiều nước đang phát triển bác bỏ. Nhập khẩu hàng hóa tái sản xuất, có xu hướng rẻ hơn so với hàng hóa mới tương tự, sẽ gây khó khăn cho các nhà sản xuất hiện tại ở các nước đang phát triển trong việc cạnh tranh trên thị trường.
Hơn nữa, các nước đang phát triển có khả năng phải gánh chịu những công nghệ lạc hậu và kém hiệu quả, có thể tiêu tốn nhiều năng lượng hơn các sản phẩm mới. Ngoài ra, sự gia tăng buôn bán hàng hóa tái sản xuất có khả năng chuyển gánh nặng thải bỏ những sản phẩm này từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển.
Thứ ba, một phần không thể thiếu của chương trình nghị sự về thương mại và bền vững là thúc đẩy việc tạo ra các tiêu chuẩn quốc tế dựa trên nền kinh tế tuần hoàn này, và cũng dựa trên các cân nhắc về hoạt động môi trường khác đang phổ biến chủ yếu ở các nước phát triển. Nếu các nước đang phát triển bắt buộc phải căn cứ các quy định kỹ thuật của họ về các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt, thì điều này có thể sẽ đặt ra mức quá cao đối với các nhà sản xuất trong nước. Điều này sẽ ngăn họ bán tại thị trường nội địa của chính họ, do đó mở đường cho hàng nhập khẩu không bị cản trở.
Thứ tư, năng lượng tái tạo, một phần quan trọng của bất kỳ kế hoạch xanh nào sẽ bị ảnh hưởng. Theo các quy định hiện hành của WTO, hầu hết các nước đang phát triển có sự linh hoạt đáng kể trong việc quyết định quy cách mua hàng, cũng như ưu đãi các nhà cung cấp trong nước đối với hoạt động mua sắm của các cơ quan chính phủ. Đối với các sản phẩm năng lượng tái tạo, những tính linh hoạt này về cơ bản đã bị xói mòn trong một số FTA gần đây. Nếu xu hướng này được chuyển sang WTO, thì các nước đang phát triển sẽ mất đi một công cụ chính sách hiệu quả để hỗ trợ các hoạt động kinh tế trong nước liên quan đến sản xuất các sản phẩm chính và hệ thống cần thiết để tạo ra năng lượng tái tạo.
Thứ năm, chương trình nghị sự về "thương mại và môi trường" có thể tìm cách cung cấp lý do pháp lý cho việc áp đặt các hạn chế đối với thương mại quốc tế, được cho là để bảo vệ môi trường. Nhiều nước đang phát triển e ngại rằng những hạn chế như vậy sẽ nhằm hạn chế xuất khẩu và có thể được các nước phát triển sử dụng cho các mục đích bảo hộ cứng rắn.
Các nghĩa vụ được liệt kê là một số ví dụ dựa trên những gì có trong một số FTA do các nước phát triển thúc đẩy và cũng dựa trên các khuyến nghị của một số tổ chức môi trường quốc tế. Không thể loại trừ khả năng xuất hiện những cam kết khác trên bàn đàm phán tại Geneva.
Báo cáo phát triển và thương mại hàng đầu của UNCTAD năm 2021 đã lưu ý, chương trình nghị sự bền vững dựa trên tự do hóa thương mại có khả năng “làm suy yếu bất kỳ khái niệm chuyển đổi công bằng nào của các nước đang phát triển bất lợi ít chịu trách nhiệm nhất đối với các thiệt hại liên quan đến khí hậu”. Điều này phần lớn giải thích tại sao nhiều nước đang phát triển khác đã kiên quyết phản đối chương trình nghị sự về thương mại và bền vững hiện tại của thế giới phát triển tại WTO.
Bất chấp tính cấp bách của việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, các quy tắc thương mại toàn cầu không được phép tạo ra thêm sự mất cân bằng và làm hạn chế triển vọng tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Sự bất bình đẳng như vậy cũng sẽ gây tai hại cho môi trường về lâu dài.
Việt Dũng