TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá nhanh về động thái nâng lãi suất của Fed ngày 16/3 và những tác động tới Việt Nam.
Báo cáo cho biết, chiều ngày 16/3/2022, sau cuộc họp thường kỳ tháng 3, Fed đã quyết định tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25 điểm %; và tuyên bố sẽ tiếp tục nâng lãi suất thêm 6 lần nữa trong năm 2022 và 3 lần trong năm tới. Đây là lần đầu tiên Fed tăng lãi suất kể từ tháng 3/2020, cho thấy lộ trình thay đổi điều hành chính sách tiền tệ của Fed theo hướng chấm dứt chương trình mua tài sản, nâng lãi suất và thu hẹp bảng cân đối tài sản và là sự kết thúc quá trình duy trì mức lãi suất thấp gần 0% kể từ thời điểm bùng phát dịch COVID-19.
Bối cảnh kinh tế Mỹ
Kinh tế Mỹ năm 2021 và 2 tháng đầu năm 2022 vẫn duy trì đà tăng trưởng tích cực: (i) GDP tăng trưởng 5,7% năm 2021, là mức cao nhất trong vòng 40 năm; (ii) tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức 3,9%, mức thấp nhất kể từ tháng 3/2020; (iii) chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất tháng 2/2022 đạt 57,3 điểm, cho thấy lĩnh vực sản xuất vẫn trong đà hồi phục tốt; (iv) doanh số bán lẻ tháng 1/2022 tăng 3,8% so với tháng trước, mức tăng cao nhất trong vòng 10 tháng. Tuy vậy, kinh tế Mỹ đang phải đối mặt với thách thức, đặc biệt là áp lực lạm phát do giá cả hàng hóa (năng lượng, kim loại, lương thực…) tiếp tục gia tăng và giữ ở mức cao; trong bối cảnh lạm phát tháng 2/2022 của Mỹ đang ở mức rất cao (7,9% so với cùng kỳ năm trước), mức cao nhất trong vòng 40 năm qua. Với đà này, Fed dự báo kinh tế Mỹ tăng trưởng khoảng 2,8% (từ mức dự báo 4% đầu năm 2022) và lạm phát tăng 4,3% năm 2022, trước khi giảm xuống 2,7% năm 2023.
Hai lý do chính khiến Fed quyết định tăng lãi suất
Động thái tăng lãi suất của Fed lần này được lý giải do: (i) hiện kinh tế Mỹ đã phục hồi tương đối vững chắc sau dịch bệnh cũng như sau giai đoạn dài thực hiện chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và phục hồi kinh tế. Khi dịch bệnh đã cơ bản được kiểm soát và kinh tế đã tăng trưởng ổn định, thất nghiệp giảm xuống còn 3,8% hiện nay. Fed bắt đầu thực hiện chấm dứt chương trình mua tài sản (một dạng nới lỏng định lượng – QE), tăng lãi suất và thu hẹp bảng cân đối tài sản như kế hoạch đã định ra; giúp kinh tế Mỹ tăng trưởng bền vững hơn; (ii) kiềm chế lạm phát, hiện đã vượt xa mục tiêu 2% (như nêu trên). Lạm phát tại Mỹ tăng cao từ đầu năm 2021 do cả yếu tố cầu kéo (kinh tế phục hồi nhanh sau đỉnh dịch năm 2020), giá cả yếu tố đầu vào (giá xăng dầu, kim loại, lương thực…) liên tục tăng từ nửa cuối năm 2021, đặc biệt từ khi căng thẳng Nga- Ukraina bùng phát từ cuối tháng 2/2022 và Mỹ, phương Tây áp đặt các lệnh trừng phạt với Nga; khiến chuỗi cung ứng hàng hóa bị gián đoạn, chi phí vận chuyển tăng; hệ quả là giá năng lượng và hàng hóa thế giới tăng cao.
Tác động đối với nền kinh tế thế giới và Việt Nam
Đối với kinh tế - tài chính toàn cầu, về ngắn hạn, việc Fed tăng lãi suất thêm 25 điểm phần % này không gây nhiều tác động do đây là việc được thực hiện theo lộ trình và đã được thị trường kỳ vọng từ trước. Thị trường hiểu rằng Fed không còn nhận định lạm phát là tạm thời nữa và đang đẩy nhanh lộ trình tăng lãi suất nhằm kiểm soát lạm phát (hiện đang là mối quan tâm lớn của người dân, nhà đầu tư). Vì thế, ngay sau quyết định chính thức của Fed, thị trường chứng khoán (TTCK) toàn cầu phản ứng tích cực, như các chỉ số TTCK Mỹ tăng từ 1,5-3,7%; TTCK châu Á tăng 2-4,5%...v.v. Về trung hạn, nhìn chung việc Fed tăng lãi suất khoảng 7 lần trong năm 2022, lên mức khoảng 1,9% vào cuối năm và tăng khoảng 3 lần năm 2023, lên mức gần 2,7% cuối năm 2023, sẽ khiến chi phí vốn và trả nợ của hộ gia đình, doanh nghiệp tăng cao, và kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại song ổn định hơn khi lạm phát dần được kiểm soát và thất nghiệp về mức 3,5% như trước dịch COVID-19. Đồng USD lên giá nhẹ (cũng là do đã được dự báo trước). Điểm tích cực lần này là Fed tăng lãi suất từ từ, có truyền thông và lộ trình rõ ràng, nên tác động có vẻ "êm hơn".
Đối với Việt Nam, trước mắt, kinh tế - tài chính Việt Nam chưa chịu tác động nhiều do mức tăng lãi suất không lớn (25 điểm %) và đã được tiên lượng trước. Về sau này, nhất là từ quý 4/2022, việc Fed tiếp tục tăng lãi suất sẽ có những tác động rõ nét hơn đến kinh tế - tài chính Việt Nam trên ít nhất là 4 phương diện.
Thứ nhất, mặt bằng lãi suất toàn cầu tăng lên có thể khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại (do doanh nghiệp, người dân cân nhắc đầu tư, tiêu dùng, nhất là bằng vốn vay nhiều hơn), nhu cầu hàng hóa – dịch vụ giảm; từ đó làm giảm nhu cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam, có thể làm giảm đà phục hồi kinh tế của Việt Nam, trong bối cảnh độ mở của nền kinh tế Việt Nam đang ở mức cao (kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP điều chỉnh ở mức khoảng 185% trong năm 2021) và Mỹ là đối tác xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam (năm 2021, xuất khẩu của VN sang Mỹ đạt 96,3 tỷ USD, chiếm 28,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của VN).
Thứ hai, việc Fed tăng lãi suất sẽ khiến đồng USD lên giá so với hầu hết các đồng tiền khác, trong đó có VND, tạo sức ép nhất định lên tỷ giá USD/VND. Tuy nhiên, tỷ giá USD/VND dự báo tăng không nhiều do: (i) đồng USD đến hết ngày 16/3/2022 đã tăng gần 3% so với cuối năm 2021 khi Fed phát đi thông điệp rõ ràng về việc thu hẹp chính sách tiền tệ, nên đà tăng sắp tới sẽ chậm hơn; (ii) dự trữ ngoại hối của Việt Nam đang đạt mức cao kỷ lục (khoảng 110 tỷ USD vào cuối năm 2021), góp phần củng cố tấm đệm với các cú sốc bên ngoài và ổn định tỷ giá; (iii) nguồn cung ngoại tệ như kiều hối, giải ngân FDI dự báo vẫn tăng trưởng ổn định, cán cân thương mại dự kiến vẫn thặng dư (dự báo khoảng 4-8 tỷ USD) trong năm 2022; và (iv) NHNN kiên định chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt, ngày càng sát diễn biến thị trường. Theo đó, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vẫn giữ dự báo tỷ giá năm 2022 chỉ tăng khoảng 0,5-1%.
Thứ ba, việc tăng lãi suất của Fed sẽ làm cho lãi suất có xu hướng tăng lên khiến chi phí vay vốn mới và nghĩa vụ trả nợ bằng đồng USD tăng. Theo Bản tin nợ công của Bộ Tài chính tháng 11/2021, trong tổng trả nợ vay nước ngoài (cả gốc và lãi) của Việt Nam là 112,6 tỷ USD năm 2020, phần trả nợ nước ngoài của Chính phủ chỉ chiếm khoảng 3,1% (3,5 tỷ USD quy đổi), còn lại là của doanh nghiệp (109,1 tỷ USD quy đổi - chiếm 96,9%, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp FDI - chiếm khoảng 75% theo số liệu ước tính của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV từ một báo cáo liên quan khác). Do không có số liệu về cơ cấu vay ngoại tệ, Nhóm tác giả giả định Chính phủ vay 40% là bằng đồng USD, doanh nghiệp vay 65-70% là bằng USD, còn lại là bằng ngoại tệ khác. Khi lãi suất và tỷ giá đồng USD tăng lên, nghĩa vụ trả nợ vay nước ngoài của doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp FDI) sẽ tăng lên đáng kể.
Thứ tư, tác động đối với dòng vốn đầu tư, nhất là đầu tư gián tiếp nước ngoài. Khi Fed tăng lãi suất, một số nhà đầu tư e ngại rủi ro, rút vốn từ các thị trường mới nổi, quay về đầu tư tại thị trường Mỹ và 1 số thị trường phát triển khác nhằm trú ẩn rủi ro và hưởng lãi suất cao hơn trước. Động thái này đã xảy ra trong năm 2021. Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV dự báo nhà đầu tư ngoại rút vốn (nếu có) sẽ không nhiều đối với thị trường Việt Nam do Việt Nam vẫn được đánh giá là thị trường hấp dẫn đầu tư với: (i) nền tảng chính trị ổn định, (ii) tiềm năng tăng trưởng kinh tế khá cao (6-6,5%), (iii) kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định (lạm phát kiểm soát khoảng 4%, tỷ giá khá ổn định, cán cân thương mại có thể thặng dư, thâm hụt ngân sách, nợ công, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ tăng nhưng trong tầm kiểm soát…), (iv) quy mô thị trường khá lớn (gần 100 triệu dân với tầng lớp trung lưu tăng nhanh)…
Ba kiến nghị đối với Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2023; để giảm thiểu những tác động tiêu cực của việc NHTW các nước, nhất là Fed, có xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất; TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV có 3 kiến nghị như sau.
Một là, cần tiếp tục tăng cường phối hợp chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và điều hành giá cả nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, cần: (i) Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt với các kịch bản khi có sự thay đổi chính sách tiền tệ của các NHTW lớn trên thế giới; phối kết hợp tốt với chính sách tài khóa, đảm bảo ổn định mặt bằng lãi suất và tỷ giá góp phần kiềm chế lạm phát theo mục tiêu; (ii) Theo sát, phân tích và dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế, cần xây dựng kịch bản nếu Fed tăng nhanh lãi suất dẫn tới những biến động trên thị trường tài chính toàn cầu.
Hai là, cần xây dựng lộ trình và phối hợp thực thi kế hoạch tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý (đặc biệt là giá xăng dầu, giá điện, giá dịch vụ y tế - giáo dục…) một cách phù hợp, nhịp nhàng, hiệu quả tránh giật cục, không phù hợp thời điểm. Bên cạnh đó, cần tăng cường truyền thông cùng các biện pháp bình ổn giá (nhất là cao điểm) nhằm giảm thiểu tâm lý lạm phát và hiện tượng "té nước theo mưa"…v.v.
Ba là, theo dõi, đánh giá nghĩa vụ nợ nước ngoài khi Fed tăng lãi suất nhằm có những cảnh báo kịp thời đối với doanh nghiệp; tiếp tục điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối chủ động, linh hoạt nhằm ổn định tỷ giá, góp phần kiểm soát lạm phát và hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp vay nợ nước ngoài nhiều.
TS Cấn Văn Lực
Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ