Giá gạo Nhật Bản tăng 'sốc', gạo Việt liệu có cơ hội?

18/03/2025 - 23:27
(Bankviet.com) Tại Nhật Bản, thiếu hụt nguồn cung đẩy giá gạo trong nước tăng cao. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu, liệu đây có là cơ hội cho gạo Việt?
Xu hướng giá gạo xuất khẩu tăng chưa chắc chắn Ấn Độ gỡ ‘rào’, gạo Việt có chịu tác động? Gạo 100% tấm của Việt Nam không đủ để xuất khẩu

‘Cửa khó’ không dễ vào

Trong năm tài chính 2024 (kết thúc vào tháng 3/2025), lượng gạo được tư nhân tại Nhật Bản nộp đơn xin nhập khẩu đã đạt mức cao kỷ lục là 991 tấn tính đến cuối tháng 1/2025. Để được nhập khẩu, các công ty này phải đóng thuế cho Chính phủ Nhật Bản. Mức thuế nhập khẩu tư nhân mà doanh nghiệp nhập khẩu gạo phải nộp là là 341 yen/kg.

gạo Japonica Việt Nam trông giống như các sản phẩm của Nhật Bản và hương vị cũng gần như giống hệt
Gạo Japonica Việt Nam trông giống như các sản phẩm gạo của Nhật Bản và hương vị cũng gần như giống hệt. Ảnh minh hoạ

Số liệu về lượng gạo nhập khẩu tư nhân chỉ được bắt đầu lưu trữ từ năm tài chính 2019 trở đi, với 426 tấn được nhập khẩu trong năm tài chính 2020. Kể từ đó, lượng gạo do tư nhân nhập khẩu thường trong khoảng từ 200-400 tấn mỗi năm. Nhưng trong năm tài chính 2024, lượng gạo này đã đạt 468 tấn rồi tăng gấp đôi lên 991 tấn vào cuối tháng 1/2025.

Hiện, giá gạo tại Nhật Bản tăng vọt, loại bao 5kg có giá hơn 4.000 yen đã trở nên phổ biến, con số này cao hơn gần gấp 3 lần so với năm ngoái. Giá gạo Japonica sản xuất tại Việt Nam và được nhập khẩu vào Nhật Bản tính cả thuế hiện đang đứng ở mức 3.240 yen cho bao 5kg. Với giá bán này, gạo Việt Nam nhập khẩu hiện vẫn rẻ hơn khoảng 800 yen/5kg so với giá gạo cùng loại của thị trường này.

Câu hỏi đặt ra lúc này đó là, Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, gạo Việt Nam cũng đang vào vụ thu hoạch lớn nhất trong năm – vụ Đông Xuân. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng đang đứng ở mức thấp. Trong số các chủng loại gạo xuất khẩu, gạo Japonica Việt Nam trông giống như các sản phẩm của Nhật Bản và hương vị cũng gần như giống hệt. Trong bối cảnh thị trường gạo Nhật Bản đang khủng hoảng về giá, liệu đây có là cơ hội cho gạo Việt Nam?

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Nguyễn Văn Thành - Giám đốc Công ty TNHH sản xuất thương mại Phước Thành IV (Vĩnh Long) – cho biết, thị trường Nhật Bản thiếu gạo, đây không phải là lần đầu tiên diễn ra. Việc này cũng đã xảy ra cách đây 3-4 năm, và họ vẫn đang thiếu gạo. Nguyên nhân do Nhật Bản mất mùa, giá gạo tăng liên tục.

Với các doanh nghiệp Việt Nam, đa phần việc xuất khẩu gạo sang thị trường Nhật Bản được thực hiện thông qua các công ty tại Nhật Bản. Đây là những doanh nghiệp đã từng làm tại đây và đã quen với văn hóa của thị trường này. Với những doanh nghiệp chưa từng xuất khẩu sang thị trường Nhật, họ sẽ rất ngại.

Nguyên nhân do, đây là thị trường rất khó tính, yêu cầu về các tiêu chuẩn dư lượng rất khắt khe. Theo đó, nhập khẩu gạo Việt Nam vào Nhật Bản phải vượt qua các quy định về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật với 624 tiêu chí kiểm định như: Đất trồng, giống lúa, sâu bệnh, dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, chất lượng gạo…, và qua ba lần kiểm tra.

Bên cạnh đó, thủ tục nhập khẩu gạo vào Nhật Bản khá phức tạp. Thông thường, phải mất tới một năm rưỡi mới có giấy phép.

Một thách thức nữa đó là người tiêu dùng Nhật Bản đã quen với chủng loại gạo của Nhật Bản, bởi họ vị dẻo, ngon, an toàn. Họ cũng đề cao sản phẩm quốc nội. Như vậy, chủng loại gạo xuất khẩu sang thị trường này cũng rất ‘kén’, doanh nghiệp phải có vùng nguyên liệu thì họ mới xuất khẩu được. Như doanh nghiệp của Phước Thành IV, do không có vùng nguyên liệu nên rất khó để xuất khẩu sang thị trường này.

Tiêu chuẩn thị trường quá khắt khe, cùng chính sách nhập khẩu không liên tục nên các doanh nghiệp ngại xuất khẩu sang thị trường này. Giá gạo Nhật Bản tăng thì họ mới cho nhập. Hay nói cách khác, thị trường này mở hạn ngạch cho gạo nhập khẩu, nếu thị trường thiếu thì họ mới nhập hàng, khi tồn kho của họ dư thừa 1 chút thì họ dừng nhập”, ông Nguyễn Văn Thành thông tin.

Một vấn đề khác được ông Thành đề cập đến đó là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, nếu chúng ta không có các đối tác thân cậy thì việc xuất khẩu gạo sang thị trường này sẽ rất rủi ro. Bởi chủng loại gạo xuất khẩu sang thị trường Nhật Ban khá kén khách, nếu như doanh nghiệp không bán được cho thị trường Nhật thì cũng không bán được trong nội địa và cũng không bán cho các quốc gia khác được.

Gạo Japonica dẻo, đa phần những người Đông Nam Á không thích, trong khi đó, chỉ thị trường Đông Nam Á mới dùng nhiều gạo. Một số quốc gia khác như ở khu vực Tây Á cũng không ăn gạo này, họ dùng gạo Jasmine hay ST, hoặc các giống gạo dẻo thơm”, ông Thành nói.

Ngon là chưa đủ

Trong báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các thị trường xuất khẩu gạo trọng điểm của Việt Nam gồm Philippines, Indonesia và Malaysia, Trung Quốc. EU và Hoa Kỳ là 2 thị trường nhập khẩu các loại gạo chất lượng cao như gạo thơm đặc sản ST24, ST25 với thị phần nhỏ khoảng 0,5-0,6%/năm. Như vậy, các thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam không có Nhật Bản.

Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, chủng loại gạo trắng chiếm tỷ trọng khoảng 71%) chủ yếu xuất khẩu sang Philippines, Indonesia, và châu Phi​​. Gạo thơm như Jasmine, Đài Thơm, ST24, ST25 chiếm tỷ trọng 19% chủ yếu xuất khẩu sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản. Gạo Japonica và gạo đặc sản khác chiếm tỷ trọng 4% chủ yếu tiêu thụ tại Nhật Bản, Hàn Quốc và thị trường cao cấp khác​.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy cho hay, mặc dù thị trường Nhật Bản thiếu gạo, giá đang đứng ở mức rất cao. Tuy nhiên, gạo Việt Nam có xuất khẩu được sang thị trường này hay không lại là việc khác. Nhật Bản chỉ nhập khẩu gạo giống của Nhật Bản cấy tại Việt Nam. Việc truy xuất nguồn gốc được họ thực hiện đến tận giống bản địa, trồng theo tiêu chuẩn hữu cơ, chứ không phải cứ ngon là họ mua.

Cũng theo ông Hoàng Trọng Thủy, Nhật Bản có hai loại hình nhập khẩu gạo. Đầu tiên là gạo do chính phủ nhập khẩu, vì Nhật Bản có nghĩa vụ mua một lượng nhất định từ nước ngoài theo các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Loại thứ hai là được tư nhân là các công ty thương mại và các công ty khác nhập khẩu.

Nền nông nghiệp Nhật Bản vẫn duy trì những hộ sản xuất quy mô nhỏ, sản lượng thấp và phụ thuộc lớn vào trợ cấp từ Chính phủ. Nhật Bản gia nhập đàm phán CPTPP trong bối cảnh nền nông nghiệp nước này vẫn chưa thực sự được chuẩn bị đủ để duy trì và tồn tại trước sức ép từ cạnh tranh nội khối.

Trong khi đó, theo các doanh nghiệp trong ngành, hiện Nhật Bản không phải là thị trường xuất khẩu gạo chủ lực của Việt Nam. Tại thị trường Nhật Bản, gạo Việt Nam chưa có đủ sức cạnh tranh so với gạo của Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc hay Australia.

Từ năm 2012 đến nay, gạo Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật chủ yếu qua đường phi mậu dịch với số lượng không đáng kể và chủ yếu dùng làm chế biến thực phẩm như bánh, tương miso...

Dự báo xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Nhật Bản trong thời gian tới vẫn sẽ khó khăn do nhu cầu tiêu thụ gạo của người dân Nhật có xu hướng giảm, trong khi gạo Việt Nam vẫn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ gạo Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc – là những nước đã có truyền thống và thế mạnh xuất khẩu gạo sang Nhật Bản.

Nhật Bản hiện có hạn ngạch nhập khẩu gạo 770.000 tấn/năm, trong đó 100.000 tấn do chính phủ nhập khẩu để làm lương thực dự trữ. Năm tài chính 2024 đánh dấu lần đầu tiên trong 7 năm qua, toàn bộ số gạo chính phủ nhập khẩu đã được bán hết, do giá gạo nội địa tăng vọt khiến người dân đổ xô mua gạo giá rẻ hơn.

Trong một phiên đấu giá tháng 12/2024, người mua đã đặt 64.380 tấn, trong khi số lượng chào bán chỉ là 25.000 tấn. Giá bán trung bình đạt 548.246 yên/tấn, mức cao kỷ lục trong lịch sử đấu giá gạo tại Nhật Bản.

Nguyễn Hạnh

Theo: Báo Công Thương