Sau các nội dung tham luận tại Hội thảo, phiên thảo luận được diễn ra với sự tham gia của 05 diễn giả: Ông Cao Văn Bình - Tổng Giám đốc CIC; ông Tạ Quang Đôn - Vụ trưởng Vụ Pháp chế NHNN; bà Đinh Thị Thái - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (
Vietcombank); ông Motokatsu Ban - Phó Tổng Giám đốc Thường trực Ngân hàng Mizuho tại Hà Nội và bà Phạm Thị Thanh Huyền - Cán bộ Quản lí chương trình phát triển Cơ sở hạ tầng tài chính của Việt Nam và Campuchia, Tổ chức
Tài chính quốc tế (IFC). Ông Lê Anh Tuấn - Phó Tổng Giám đốc CIC điều phối phiên thảo luận.
Theo ông Lê Anh Tuấn - Phó Tổng Giám đốc CIC, hoạt động thông tin tín dụng đã được thành lập và phát triển ở Việt Nam hơn 30 năm và thực sự phát triển vượt trội trong hơn 10 năm gần đây, thực hiện vai trò cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lí nhà nước, điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN và hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động kinh doanh, quản lí rủi ro của các TCTD, góp phần vào sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Để đạt được điều đó, khuôn khổ pháp lí cho hoạt động thông tin tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong những năm qua, Ban Lãnh đạo NHNN luôn quan tâm, tạo điều kiện để phát triển hoạt động này.
Phiên thảo luận Hội thảo dựa trên cơ sở những góc nhìn khác nhau, cũng như các kiến nghị, đề xuất của các diễn giả để đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng của cơ sở dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia.
Những cơ hội và thách thức
Theo ông Tạ Quang Đôn - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, NHNN, khuôn khổ pháp lí của Việt Nam đối với hoạt động thông tin tín dụng quốc gia hiện nay tương đối hoàn thiện, tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, với sự phát triển ngày càng rõ nét của công nghệ cũng như sự vận hành của nền
kinh tế mở, việc xây dựng hệ thống thông tin tín dụng quốc gia sẽ có nhiều cơ hội và thách thức.
Cụ thể, ông Tạ Quang Đôn đánh giá, cơ sở dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam có thể được nhìn nhận theo hai cấp độ khác nhau: Quan hệ giữa khách hàng và TCTD; quan hệ chia sẻ cung cấp thông tin tín dụng giữa TCTD và CIC. Luật NHNN chỉ quy định nhiệm vụ của NHNN về tổ chức thu nhận, sử dụng, lưu trữ, cung cấp và công bố thông tin phù hợp với quy định của pháp luật về quyền của NHNN trong việc thu thập thông tin khách hàng vay mà không cần có sự đồng ý của khách hàng vay. Trong khi đó, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP của Chính phủ cũng đã quy định: Sự đồng ý của chủ thể dữ liệu được áp dụng đối với tất cả các hoạt động trong quy trình xử lí dữ liệu cá nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác. Nghị định số 13/2023/NĐ-CP cũng quy định, trường hợp không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu khi việc xử lí dữ liệu cá nhân phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước đã được quy định theo pháp luật chuyên ngành.
Thông tư số 03/2013/TT-NHNN cũng có quy định các đối tượng cung cấp thông tin tín dụng bao gồm TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tự nguyện với các nhóm thông tin bao gồm thông tin nhận dạng, thông tin hợp đồng tín dụng, thông tin quan hệ tín dụng, thông tin tình trạng tài khoản thẻ tín dụng, thông tin bảo đảm tiền vay, thông tin tài chính năm của khách hàng vay và thông tin đầu tư
trái phiếu vào khách hàng vay là doanh nghiệp…
Theo ông Tạ Qung Đôn, vấn đề này dường như chưa được xử lí cụ thể, nếu chỉ dựa vào các quy định liên quan đến tổ chức tham gia tự nguyện tại Thông tư số 03/2013/TT-NHNN do trường thông tin thu thập còn chưa đa dạng, chưa phản ánh thông tin phi tài chính; đồng thời việc sử dụng thông tin tín dụng của nhóm đối tượng phi tài chính cần có sự đồng ý bằng văn bản của khách hàng (theo quy định tại Thông tư số 03/2013/TT-NHNN) có thể làm giảm động lực của việc tham gia cung cấp và khai thác thông tin tín dụng. Do vậy, các cơ quan quản lí cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện khuôn khổ pháp lí để có thể khai thác triệt để những lợi ích, sáng tạo của công nghệ mà vẫn bảo đảm tối đa quyền lợi hợp pháp của khách hàng, duy trì sự an toàn hệ thống thông tin tín dụng, nhằm xây dựng một cơ sở dữ liệu toàn diện, chính xác, tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn tín dụng phù hợp với năng lực tài chính của mình, giảm thiểu tối đa việc phát sinh nợ không có khả năng thanh toán.
Ông Tạ Quang Đôn cũng cho biết, trong dự thảo Luật Các TCTD cũng đã được bổ sung thêm một điều khoản quy định quan trọng đối với việc cung cấp xử lí dữ liệu cá nhân, các hoạt động xử lí dữ liệu cá nhân phục vụ cho hoạt động của các TCTD, cũng như cung cấp cho CIC hay các đơn vị thông tin tín dụng không cần có sự đồng ý của khách hàng.
Chia sẻ về những cơ hội và thách thức trong việc nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia, ông Cao Văn Bình, Tổng Giám đốc CIC cho rằng, có 5 cơ hội, có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển về công nghệ, các giải pháp mới về công nghệ thông tin, công nghệ số, qua đó có rất nhiều giải pháp mới giúp cho việc cải thiện việc thu thập xử lí dữ liệu, ví dụ các giải pháp về trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật, dữ liệu lớn có thể thu thập các thông tin một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng hơn so với trước đây.
Thứ hai, chủ trương, tinh thần quyết liệt của Bộ Chính trị, Chính phủ và đặc biệt là NHNN trong việc chuyển đổi số. Nhận thức của các cơ quan quản lí cũng như người dân xác định dữ liệu là một tài sản có thể mang lại giá trị lớn hơn trong tương lai. Đây sẽ là động lực lớn trong việc thúc đẩy xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Khi có các cơ sở dữ liệu chuyên ngành thì sự kết nối liên thông giữa các dữ liệu giúp cho không chỉ các ngành thực hiện được việc quản lí của mình mà toàn xã hội, bao gồm: người dân, doanh nghiệp, các cơ quan quản lí nhà nước đều được hưởng lợi (ví dụ, chỉ cần có căn cước công dân, chúng ta có thể liên kết nhiều loại dữ liệu như
bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, các dịch vụ công...).
Thứ ba, về cơ sở pháp lí của hoạt động thông tin tín dụng: Thời gian gần đây, chúng ta rất chú trọng đến cơ sở pháp lí, đặc biệt là sự quan tâm của Ban Lãnh đạo NHNN trong xây dựng các khung pháp lí trong hoạt động thông tin tín dụng, có sự cởi mở, không chỉ bó gọn trong hoạt động thông tin tín dụng của ngành Ngân hàng mà còn mở rộng cho CIC thu thập thêm thông tin từ các nguồn dữ liệu thay thế.
Thứ tư, sự quan tâm của Ban Lãnh đạo NHNN đến hoạt động báo cáo thông tin nói chung và hoạt động thông tin tín dụng nói riêng trong thời gian gần đây cũng là một điểm mạnh, là động lực giúp cho các đơn vị trong ngành Ngân hàng nói chung, cũng như CIC nói riêng, trong việc cải tiến quy trình, thực hiện các biện pháp để nâng chất lượng cơ dữ liệu.
Thứ năm, ý thức của người dân và doanh nghiệp, vấn đề bảo vệ dữ liệu: Đây là tác động tích cực cho các cơ quan thu thập, xử lí dữ liệu, qua đó nhận thức rõ hơn về vấn đề thu thập và quản lí dữ liệu, giúp cho việc đảm bảo độ chính xác, an toàn thông tin.
Về thách thức:
Thứ nhất, việc chia sẻ thông tin nền tảng, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành hiện nay chưa đồng nhất. Thực tế cho thấy, qua việc khai thác thông tin của CIC với các bộ, ngành (như với Bộ Công an về Đề án 06) thì việc kết nối cũng không hoàn toàn là dễ dàng, và hiện nay, mới chỉ có CIC và một số công ty viễn thông có thể kết nối được, các TCTD chưa hoàn thành việc kết nối dữ liệu. Đối với các bộ, ngành khác thì rào cản pháp lí cũng như nền tảng công nghệ để kết nối vẫn là khó khăn còn tồn tại.
Thứ hai, thách thức về an toàn, an ninh thông tin. Thực tế là không có một cơ sở dữ liệu nào hoặc không có một hệ thống thông tin nào là an toàn tuyệt đối. Chúng ta có thể dùng rất nhiều giải pháp về công nghệ khác nhau để đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, tất cả đều mang tính chất chủ quan còn vấn đề đảm bảo an toàn thông tin vẫn là thách thức rất lớn không chỉ riêng các hệ thống thông tin của Việt Nam mà cả thế giới, thậm chí hệ thống lớn của các quốc gia khác.
Thứ ba, thách thức về nguồn nhân lực công nghệ thông tin, đặc biệt là nguồn nhân lực về công nghệ mới của nước ta hiện nay. Yêu cầu về ứng dụng công nghệ mới rất cao nhưng các chuyên gia trong lĩnh vực này còn rất ít.
Thứ tư, khả năng triển khai hệ thống công nghệ thông tin của nước ta hiện nay cũng còn nhiều vấn đề, đặc biệt là các đơn vị tư vấn trong nước chưa làm chủ được các công nghệ mới, gần như phụ thuộc hoàn toàn vào các công ty công nghệ nước ngoài.
Chia sẻ về kết quả của việc kết nối, sử dụng thông tin tín dụng hiện nay và tính hiệu quả trong việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ của CIC trong hoạt động kinh doanh của Vietcombank, bà Đinh Thị Thái, Phó Tổng Giám đốc Vietcombank cho biết, trước đây tại Vietcombank, số lượng bản ghi bị trùng lặp khi khai thác thông tin trên web rất nhiều. Vietcombank cấp quyền truy cập cho các chi nhánh, mỗi một đơn vị có thể kí hợp đồng độc lập với CIC, vì vậy, toàn hệ thống Vietcombank có khoảng 40 hợp đồng đơn lẻ kí với CIC. Do đó, các chi nhánh khai thác hợp đồng với CIC bị trùng lặp nhiều, trong số đó có nhiều trường hợp thông tin khai thác trong khoảng thời gian một vài ngày nhưng các chi nhánh khác nhau không có sự chia sẻ thông tin, do vậy, chi phí cho việc khai thác thông tin là rất lớn. Sau khi kết nối H2H với CIC, Vietcombank đã hợp nhất tất cả các hợp đồng đã kí của các chi nhánh, hiện tại, chỉ còn một hợp đồng duy nhất kí với CIC qua cổng H2H.
Về cơ bản, Vietcombank đã
tiết kiệm được hơn 40% chi phí phát sinh và số lượng các giao dịch trùng lặp. Đây là động lực rất lớn để Vietcombank tiếp tục tăng cường khai thác sản phẩm theo kênh H2H đã kí và đã hợp tác với CIC.
Vietcombank là ngân hàng sử dụng rất nhiều và đa dạng các sản phẩm, dịch vụ của CIC; sử dụng các sản phẩm theo xếp hạng tín dụng của CIC; sử dụng các sản phẩm liên quan đến tài sản bảo đảm, thậm chí có những gói sản phẩm mua theo lô để phục vụ cho những phân tích, đánh giá và xây dựng mô hình của ngân hàng. Vietcombank sử dụng thông tin CIC như một chỉ tiêu, từ đó phân nhỏ các chỉ tiêu để chấm điểm xếp hạng đối với các loại khách hàng, từ khách hàng doanh nghiệp đến khách hàng cá nhân. Qua các dữ liệu của CIC đưa vào các mô hình, Vietcombank đánh giá hiệu năng cũng như chất lượng của mô hình được cải thiện đáng kể. Vietcombank còn sử dụng dữ liệu CIC để phục vụ cho phân tích ngành để đánh giá chất lượng theo ngành trong công tác về đánh giá, quản trị rủi ro cũng như về phát triển kinh doanh của ngân hàng.
Bà Đinh Thị Thái cho biết, kế hoạch của Vietcombank để nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu khách hàng trong thời gian tới là thường xuyên, liên tục làm sạch dữ liệu và cải thiện chất lượng dữ liệu phục vụ nhu cầu quản lí của ngân hàng. Tình trạng một khách hàng có nhiều số định danh vẫn còn xảy ra do trước đây khách hàng mở tài khoản dùng chứng minh thư 9 số, sau đó mở lại tài khoản bằng căn cước công dân 12 số; căn cước công dân gắn chíp hoặc bằng hộ chiếu. Do đó, Vietcombank phải thường xuyên tra soát dữ liệu để làm sạch, khớp các dữ liệu; việc yêu cầu khách hàng cập nhật các thông tin được thực hiện thường xuyên không chỉ để phục vụ cho việc cung cấp thông tin cho CIC mà còn phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền, công tác nâng cao chất lượng dịch vụ; định danh đúng khách hàng, đúng người đang mở tài khoản tại ngân hàng và phục vụ cho công tác quản lí rủi ro, gian lận trong nội bộ ngân hàng. Thời gian tới, Vietcombank sẽ tiếp tục phối hợp cùng với C06, Bộ Công an rà soát lại dữ liệu đối với những khách hàng đang có trong cơ sở dữ liệu và mở rộng khách hàng mới được kết nối cơ sở dữ liệu với C06 đã được làm sạch.