Phát triển kinh tế số: Nhiều nhiệm vụ triển khai trong năm 2025 Từ phát biểu của Tổng Bí thư, bàn về kinh tế dữ liệu Tài sản mã hoá: ‘Xương sống’ của nền kinh tế số |
Ngành học chiến lược trong kỷ nguyên chuyển đổi số
Kinh tế số đang dần trở thành một phần không thể thiếu trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ: Thương mại điện tử, tài chính - ngân hàng, giáo dục, đến quản trị doanh nghiệp… Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2024, kinh tế số góp 1,5 triệu tỷ đồng, chiếm 13,17% GDP của Việt Nam, với sự tham gia của các ngành như: Công nghệ tài chính (fintech), trí tuệ nhân tạo (AI) và thương mại điện tử.
Hơn hết, Chính phủ cũng đang đẩy mạnh chương trình chuyển đổi số quốc gia, với mục tiêu đưa kinh tế số trở thành một trụ cột quan trọng của nền kinh tế… Điều này khiến nhu cầu về nhân lực có chuyên môn trong lĩnh vực kinh tế số ngày càng tăng cao, thúc đẩy các trường đại học phải cập nhật chương trình đào tạo phù hợp với bối cảnh mới.
Tại Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, mùa tuyển sinh 2025 này, nhà trường đã cho ra đời chương trình đào tạo Kinh tế số và Quản lý, nhằm trang bị cho sinh viên kiến thức chuyên sâu về mô hình kinh doanh kỹ thuật số, quản trị doanh nghiệp trong môi trường số hóa và quản lý rủi ro.
PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế, nhận định: “Chuyển đổi số đang thay đổi nền kinh tế toàn cầu, và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này. Việc đào tạo nhân lực có chuyên môn về kinh tế số là điều cấp thiết để đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp và Chính phủ”.
![]() |
Chương trình học ngành Kinh tế số tập trung vào tính hiện đại, quốc tế hóa, cá nhân hóa, thực tiễn và liên thông. Ảnh minh họa |
Chia sẻ cụ thể về ngành học “bắt trend” này, TS. Nguyễn Thùy Anh, Giảng viên khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế - cho hay, chương trình đào tạo ngành Kinh tế số và Quản lý được nhà trường thiết kế theo mô hình chuẩn quốc tế, tham khảo từ chương trình của Đại học Queensland (Australia) và có sự điều chỉnh cho phù hợp với người học Việt Nam.
Theo đó, chương trình tập trung vào tính hiện đại, quốc tế hóa, cá nhân hóa, thực tiễn và liên thông. Sinh viên sẽ cần hoàn thành 130 tín chỉ gồm: 63 tín chỉ kiến thức chuyên ngành, 17 tín chỉ kiến thức theo nhóm ngành, 14 tín chỉ kiến thức theo khối ngành, 10 tín chỉ theo lĩnh vực và 26 tín chỉ kiến thức chung.
Một điểm đáng chú ý trong chương trình là sinh viên được học tập và thực hành tại doanh nghiệp ngay từ năm nhất, giúp tiếp cận môi trường làm việc thực tế và nâng cao kỹ năng mềm. “Chúng tôi tập trung vào tính thực tiễn, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp để sinh viên có thể áp dụng ngay kiến thức vào công việc thực tế. Do đó, sinh viên tốt nghiệp không chỉ nắm vững lý thuyết mà còn có kỹ năng thực tiễn mạnh mẽ, nhờ vào hệ thống học phần thực tập trải dài từ năm nhất đến năm cuối” - TS. Nguyễn Thùy Anh khẳng định.
![]() |
Đào tạo ngành Kinh tế số không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn giúp sinh viên Việt Nam cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Ảnh: Hồng Anh |
“Nhúng” sinh viên vào môi trường thực chiến
Theo các nhà quản lý, doanh nghiệp, bên cạnh chú trọng chương trình đào tạo chuyên sâu, các trường đại học cần tiếp tục đẩy mạnh liên kết, hợp tác, mở rộng mối quan hệ với các doanh nghiệp, địa phương, đơn vị để “nhúng” sinh viên vào môi trường thực tiễn. Bởi, các doanh nghiệp hiện nay không có hứng thú với những sinh viên thiếu trải nghiệm, chưa tham gia bất kỳ môi trường làm việc chuyên nghiệp nào trong những năm tháng sinh viên.
Ông Nguyễn Hồng Sơn - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn OSB Group - đơn vị có khoảng 2.000 doanh nghiệp đang sử dụng dịch vụ trên nền tảng số đánh giá cao sự tiên phong của các nhà trường khi công bố các chuyên ngành rất phù hợp xu thế và đào tạo nhiều kỹ năng trong đó kỹ năng phân tích dữ liệu đang rất cần thiết và quan trọng.
Theo ông Sơn, hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ cần những người hiểu về kinh tế mà còn phải biết cách khai thác dữ liệu để ra quyết định chính xác. Sinh viên có nền tảng về phân tích dữ liệu sẽ có lợi thế cạnh tranh rất lớn trên thị trường lao động.
“OSB rất sẵn sàng hỗ trợ tiếp nhận các sinh viên đến thực tập, thậm chí có chế độ trả lương để tạo động lực cho sinh viên cống hiến. Chúng tôi rất kỳ vọng các chuyên ngành mới sẽ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng tốt, va chạm thực tiễn để đóng góp nhiều hơn cho xã hội” - ông Sơn bày tỏ.
Còn ông Triệu Đình Trường - Phó Tổng giám đốc Xi măng Vicem Hải Phòng nhận định, sinh viên ngành này có thể làm việc ngay sau khi tốt nghiệp nhờ vào sự chuẩn bị kỹ lưỡng trong chương trình học, từ kiến thức nền tảng đến thực tiễn doanh nghiệp.
Bày tỏ sự ủng hộ việc các trường mở chuyên ngành mới có xu hướng mang tính thời đại, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong xã hội, ông Đồng Xuân Trường - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định, việc đào tạo ngành Kinh tế số không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn giúp sinh viên Việt Nam cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế.
Để ngành học này thực sự phát triển trong tương lai, ông Trường yêu cầu: “Ngoài xây dựng chương trình đào tạo mới, nhà trường cần có sự đầu tư chuyên sâu trong xây dựng bài giảng, khung chương trình; có chính sách thu hút giảng viên; đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu của người học và nhu cầu của tổ chức, doanh nghiệp; đảm bảo chuẩn đầu ra trong thời đại chuyển đổi số, phù hợp với các định hướng của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh mới”.
Có thể khẳng định, ngành Kinh tế số và Quản lý không chỉ là một lựa chọn học tập mà còn là một hướng đi chiến lược trong kỷ nguyên số. Với chương trình đào tạo bài bản, cơ hội thực tập sớm và nhu cầu tuyển dụng cao, sinh viên tốt nghiệp ngành này sẽ có nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp trong môi trường làm việc hiện đại.
Như lời của TS. Nguyễn Thùy Anh: “Tương lai không chỉ thuộc về những người giỏi lý thuyết, mà còn là những người biết cách khai thác dữ liệu, hiểu cách vận hành nền kinh tế số và có khả năng quản lý hiệu quả”.
PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế: Ngành học Kinh tế số và Quản lý tập trung vào các mô hình kinh doanh mới như nền kinh tế nền tảng (platform economy), thương mại điện tử, fintech và kinh tế chia sẻ (sharing economy). Trong khi đó, các ngành kinh tế khác thường dựa vào các mô hình truyền thống hơn như doanh nghiệp sản xuất, thương mại truyền thống và dịch vụ tài chính truyền thống... |