Phóng viên: Chính phủ đã đề ra định hướng “thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững”, dưới góc độ là chuyên gia tài chính - ngân hàng, theo ông, các ngân hàng đã đồng hành, tham gia trong việc tài trợ nguồn lực, cho vay doanh nghiệp đổi mới sáng tạo như thế nào?
ThS. Nguyễn Minh Trí: Chủ trương “thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững” là định hướng chiến lược của Chính phủ nhằm tạo động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế. Trong tiến trình đó, các NHTM giữ vai trò quan trọng trong việc tài trợ nguồn lực cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp công nghệ. Một số ngân hàng đã triển khai tín dụng xanh, cho vay dựa vào dòng tiền, hợp tác với quỹ bảo lãnh tín dụng, hoặc sử dụng vốn vay ưu đãi từ các định chế quốc tế để cấp vốn cho các dự án đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, hoạt động tài trợ này vẫn còn hạn chế do rủi ro cao, thiếu tài sản bảo đảm và hành lang pháp lý chưa hoàn thiện.
Để ngân hàng đồng hành sâu hơn với doanh nghiệp đổi mới, cần phát triển hệ thống đánh giá tín nhiệm phi truyền thống, mở rộng hợp tác ngân hàng – quỹ đầu tư – Nhà nước và nghiên cứu cơ chế cho phép ngân hàng đầu tư vốn cổ phần vào các dự án đổi mới sáng tạo. Khi đó, dòng vốn tín dụng mới thực sự trở thành “chất xúc tác” cho đổi mới và phát triển bền vững.
Theo tôi, để có thể hỗ trợ nguồn lực cho các doanh nghiệp khởi nghiệp thành công, đòi hỏi ngân hàng phải có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, yếu tố con người, người dẫn dắt doanh nghiệp luôn được đặt lên hàng đầu.
Một điều quan trọng khác nữa chính là về dòng tiền. Hiện nay, đa phần ngân hàng Việt Nam khá e dè trong việc quyết định đầu tư cho các doanh nghiệp từ giai đoạn rất sớm, mà thường sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp khi đã bắt đầu có dòng tiền ổn định, mô hình kinh doanh đã hình thành và triển khai thực tế. Nhưng có thể trong tương lai, năng lực của các ngân hàng sẽ cải thiện hơn, để có thể tự tin hơn khi rót vốn cho các doanh nghiệp nhiều tiềm năng.
Ngoài ra, quyết định cấp vốn còn phụ thuộc vào điều kiện thị trường, bởi khi đó, cả ngân hàng và doanh nghiệp cùng “ngồi trên một con thuyền vượt đại dương lớn”, nếu gặp “bão tố” thì việc cùng đi đến đích sẽ gặp rất nhiều trắc trở.
Nhưng trên hết, ngân hàng vẫn luôn kỳ vọng điều kiện thị trường tốt để có thể đồng hành cùng đi một con đường dài và bền vững, dù thực tế lợi nhuận đem lại từ các doanh nghiệp rất “khiêm tốn”. Điều các ngân hàng mong muốn là đóng góp cho hệ sinh thái doanh nghiệp, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo của thế hệ trẻ Việt Nam theo đúng chủ trương mà Chính phủ đề ra.
Phóng viên: Việc thiếu vốn khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bỏ lỡ cơ hội đầu tư hiệu quả, dù không ít dự án tuy quy mô nhỏ nhưng giàu tính sáng tạo và linh hoạt có thể trở thành động lực đổi mới và tăng trưởng cho nền kinh tế. Nhiều doanh nghiệp gọi đây là “vòng xoáy con gà - quả trứng”, muốn phát triển thì cần vốn nhưng chưa phát triển lại khó tiếp cận vốn vay, theo ông ngân hàng và doanh nghiệp nhỏ và vừa cần làm gì để vượt qua “vòng xoáy con gà – quả trứng” để cùng phát triển thời gian tới?
ThS. Nguyễn Minh Trí: Trước hết về thực trạng và nghịch lý vốn của doanh nghiệp nhỏ hiện nay, thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức từ ngân hàng. Trong khi đó, nhiều dự án kinh doanh của họ tuy quy mô nhỏ nhưng có tính đổi mới, linh hoạt, và có thể tạo ra tăng trưởng nếu được hỗ trợ đúng lúc. Tuy nhiên, việc thiếu tài sản thế chấp, lịch sử tín dụng không đảm bảo và khả năng quản trị hạn chế khiến ngân hàng khó có cơ sở để đánh giá và cấp tín dụng. Do đó, doanh nghiệp nhỏ không có vốn nên không thể phát triển, mà không phát triển thì lại càng khó vay vốn, tạo thành một “vòng xoáy con gà – quả trứng” khiến cả ngân hàng và doanh nghiệp nhỏ đều lúng túng.
Theo tôi, có thể xuất phát từ các nguyên nhân sâu xa sau:
(i) Từ phía doanh nghiệp nhỏ thiếu báo cáo tài chính minh bạch, chuẩn mực để ngân hàng đánh giá rủi ro tín dụng. Ngoài ra, kỹ năng quản trị tài chính và quản trị rủi ro yếu. Đồng thời, phụ thuộc vào tài sản thế chấp thay vì có mô hình kinh doanh rõ ràng, khả thi.
(ii) Về ngân hàng, do: thứ nhất, thiếu công cụ và cơ chế đánh giá tín dụng phi truyền thống (dựa trên dòng tiền, uy tín xã hội, điểm tín nhiệm phi tài sản,…); Thứ hai, ngại rủi ro vì chi phí thẩm định các khoản vay nhỏ cao, trong khi lợi nhuận thấp; Thứ ba, quy trình xét duyệt tín dụng chưa linh hoạt cho nhóm doanh nghiệp phi chính thức hoặc siêu nhỏ.
Theo tôi giải pháp để cùng vượt qua “vòng xoáy” là doanh nghiệp nhỏ cần minh bạch tài chính; nâng cao năng lực kế toán, sử dụng phần mềm kế toán và chuẩn hóa báo cáo tài chính giúp tăng độ tin cậy đối với ngân hàng. Đa dạng hóa nguồn vốn để không chỉ dựa vào ngân hàng, Doanh nghiệp nhỏ cần tìm đến các quỹ đầu tư mạo hiểm, gọi vốn cộng đồng, đối tác chiến lược hoặc chương trình hỗ trợ từ Chính phủ.
Tham gia chuỗi cung ứng chính quy: Việc trở thành nhà cung ứng của các doanh nghiệp lớn có thể giúp doanh nghiệp nhỏ chứng minh năng lực kinh doanh và tạo uy tín tín dụng gián tiếp. Ứng dụng công nghệ số: Số hóa quy trình kinh doanh giúp tạo dữ liệu theo thời gian thực để ngân hàng dễ đánh giá dòng tiền và hiệu quả kinh doanh.
Ngoài ra, về phía ngân hàng cần đổi mới mô hình thẩm định tín dụng, tăng cường các công cụ chấm điểm tín dụng dựa trên dữ liệu thay vì chỉ dựa vào tài sản thế chấp. Phát triển sản phẩm tài chính linh hoạt, thiết kế các gói tín dụng nhỏ, ngắn hạn, có thể theo sát vòng quay vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ. Tăng cường hợp tác với Fintech, sử dụng nền tảng dữ liệu số và trí tuệ nhân tạo để đánh giá tín nhiệm tín dụng phi truyền thống. Chủ động tư vấn và đồng hành, ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán cho doanh nghiệp nhỏ như một phần của quan hệ đối tác lâu dài.
Bên cạnh đó, về chính sách cần thiết lập quỹ bảo lãnh tín dụng hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi cho doanh nghiệp nhỏ vay vốn. Thúc đẩy hệ sinh thái tín dụng vi mô và công nghệ tài chính, tạo hành lang pháp lý để Fintech và ngân hàng truyền thống phối hợp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Đào tạo kỹ năng quản trị doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ nâng cao năng lực quản lý, lập kế hoạch tài chính và tiếp cận vốn.
Do đó, theo tôi để vượt qua “vòng xoáy con gà – quả trứng”, không chỉ doanh nghiệp nhỏ cần thay đổi mà ngân hàng và cả hệ thống chính sách cũng phải đổi mới tư duy và cơ chế hỗ trợ. Cần chuyển từ mô hình “cấp vốn dựa trên tài sản” sang “cấp vốn dựa trên năng lực sinh lời và đổi mới”. Chỉ khi cả 3 bên doanh nghiệp - ngân hàng - Nhà nước cùng hành động, thì doanh nghiệp nhỏ mới có thể phát huy vai trò là động lực đổi mới và tăng trưởng kinh tế bền vững.
Phóng viên: Nghị quyết 68-NQ/TW là “bệ phóng” giúp thúc đẩy kinh tế tư nhân trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội đạt quy mô lớn trong tương lai cùng với sự đồng hành, hỗ trợ nguồn lực từ phía các ngân hàn, theo ông đâu là giải pháp để hiện thực về vấn đề này?
ThS. Nguyễn Minh Trí: Có thể thấy vai trò của Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ về “Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp” là một trong những chính sách trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch và thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân. Đối với doanh nghiệp nhỏ khu vực chiếm tới hơn 97% tổng số doanh nghiệp Việt Nam, Nghị quyết 68-NQ/TW mang tính chất như một “bệ phóng” tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong các phương diện: Tiếp cận tín dụng và nguồn lực tài chính; cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật; căng khả năng cạnh tranh; thúc đẩy đổi mới sáng tạo để vươn lên quy mô lớn hơn.
Tuy nhiên, để thành “bệ phóng” là cú hích thực sự, cần những giải pháp cụ thể từ cả phía doanh nghiệp, ngân hàng và chính sách nhà nước. Các rào cản hiện nay khiến doanh nghiệp nhỏ khó đạt quy mô lớn, có thể kể đến, như: Thiếu vốn dài hạn, thiếu tài sản bảo đảm để tiếp cận tín dụng; Năng lực quản trị yếu, thiếu kế hoạch phát triển bài bản; Thiếu thông tin thị trường, thiếu năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo.
Mối liên kết yếu giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau và với doanh nghiệp lớn trong chuỗi giá trị. Ngân hàng còn dè dặt trong việc cấp tín dụng không tài sản bảo đảm cho các dự án đổi mới của doanh nghiệp nhỏ do lo ngại rủi ro.
Theo tôi, giải pháp hiện thực hóa mục tiêu đưa doanh nghiệp nhỏ phát triển quy mô lớn, đó là: Thứ nhất là, tái cấu trúc mô hình kinh doanh theo hướng bài bản và dài hạn, xây dựng chiến lược tăng trưởng quy mô thông qua đổi mới sản phẩm, chuyển đổi số, kết nối chuỗi giá trị; Thứ hai, chuẩn hóa quản trị và minh bạch tài chính bằng cách ứng dụng công nghệ trong kế toán, tài chính để tạo điều kiện tiếp cận tín dụng ngân hàng dễ hơn; Thứ ba, tham gia hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hướng tới gọi vốn đầu tư mạo hiểm, hợp tác công nghệ thay vì chỉ dựa vào vay vốn ngân hàng.
Còn ngân hàng cần phát triển sản phẩm tài chính phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp nhỏ như tăng cường các sản phẩm tín dụng không cần thế chấp, cho vay dựa trên dòng tiền, hợp đồng đầu ra, hoặc mô hình kinh doanh khả thi. Thực hiện đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp theo hướng định lượng và dự báo như: áp dụng công nghệ (AI, Big Data) để phân tích rủi ro tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ theo mô hình quốc tế. Thúc đẩy các chương trình tín dụng ưu đãi, đồng tài trợ với các tổ chức phát triển (ADB, WB, JICA) nhằm chia sẻ rủi ro và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ tiếp cận vốn với lãi suất thấp hơn.
Nhà nước phổ biến và thúc đẩy thực hiện hiệu quả Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ (2017) và các nghị định hướng dẫn, đặc biệt trong các lĩnh vực: bảo lãnh tín dụng, ưu đãi thuế, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và hỗ trợ chuyển đổi số. Thành lập các quỹ đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ ở cấp quốc gia và địa phương giúp hỗ trợ vốn ban đầu hoặc đồng tài trợ với ngân hàng. Tạo cơ chế liên kết vùng, cụm ngành, chuỗi giá trị nhằm giúp doanh nghiệp nhỏ có thể mở rộng quy mô thông qua hợp tác, thay vì cạnh tranh đơn lẻ.
Đồng thời, xây dựng nền tảng dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp nhằm hỗ trợ kết nối ngân hàng – doanh nghiệp – cơ quan quản lý – nhà đầu tư một cách minh bạch, hiệu quả.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
ThS. Trần Trọng Triết (thực hiện)