Sau 6 năm thực hiện, thực tiễn đã chứng minh những hiệu quả tích cực mà Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã đem lại khi trao cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ các biện pháp cần thiết và hữu hiệu nhằm rút ngắn thời gian xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm, góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng trong nền kinh tế.
Thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước vừa qua đã công bố Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng để luật hoá một số nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14 (“Nghị quyết 42”). Bản dự thảo dự kiến sẽ được trình và có thể được thông qua tại kỳ họp Quốc hội vào tháng 5/2025.
Ba chính sách liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm tại Nghị quyết số 42 được đề xuất luật hóa theo hướng sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, bao gồm:
Thứ nhất, quyền thu giữ tài sản đảm bảo: Trao quyền cho các tổ chức tín dụng thu giữ tài sản đảm bảo trong trường hợp khách hàng vay không thanh toán được nợ, với điều kiện hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về quyền này.
Thứ hai, quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án: Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ chức tín dụng không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác, qua đó giúp đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu.
Thứ ba, hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự cũng như tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính: Thiết lập một khung pháp lý rõ ràng về hoàn trả tài sản bị thu giữ liên quan đến các vụ án hình sự hoặc hành chính.
Trong báo cáo cập nhật ngành Ngân hàng mới đây, CTCK SSI (SSI Research) đánh giá, nếu không có những quy định này, việc giải quyết nợ xấu chủ yếu dựa vào quá trình khởi kiện, tham gia tố tụng và tiến hành thi hành án. Thời gian hoàn tất mỗi vụ có thể kéo dài nhiều năm.
Trong khi đó, các ngân hàng vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro, dừng dự thu lãi và chịu chi phí vốn hàng ngày, gây áp lực lên bảng cân đối kế toán.
"Vấn đề này đặc biệt khó khăn đối với các ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán lẻ cao với rất nhiều khoản vay có quy mô nhỏ và phân tán về mặt địa lý, làm tăng chi phí vận hành cũng như hạn chế khả năng mở rộng tín dụng mới hoặc giảm lãi suất cho vay", báo cáo lưu ý.
Nhóm chuyên gia nghiên cứu của SSI Research cho rằng, việc luật hóa các quy định nói trên của Nghị quyết 42 là một bước quan trọng trong việc tháo gỡ những khó khăn liên quan đến quá trình xử lý nợ xấu của ngành Ngân hàng, đặc biệt là trong bối cảnh tổng tài sản có vấn đề (bao gồm nợ xấu, trái phiếu VAMC và các khoản nợ xấu tiềm ẩn khác) của hệ thống đã tăng lên khoảng 7%.
“Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP được Chính phủ đặt ở mức tương đối cao, chúng tôi tin rằng hệ thống ngân hàng cần một khung pháp lý ổn định và toàn diện để giải quyết nợ xấu, thay vì một chương trình thí điểm tạm thời trong một khoảng thời gian xác định như trước đây”, chuyên gia SSI Research nhấn mạnh.
Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ: Củng cố nền tảng pháp lý cho việc giải quyết nợ xấu, giảm thời gian xử lý và cải thiện hiệu quả thu hồi nợ; Cải thiện quy trình thanh lý tài sản, cho phép các ngân hàng đẩy nhanh việc bán tài sản đảm bảo và thu hồi vốn hiệu quả hơn; Giảm chi phí vận hành và tăng cường khả năng mở rộng tín dụng, phù hợp với mục tiêu của Chính phủ trong việc cải thiện tiếp cận tín dụng và giảm lãi suất cho vay trong năm 2025.
“Mặc dù các sửa đổi đề xuất sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các tổ chức tín dụng, chúng tôi cho rằng các ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán lẻ cao - những ngân hàng phải xử lý nhiều khoản vay nhỏ - sẽ được hưởng lợi nhiều nhất, vì việc giải quyết nợ xấu nhanh sẽ giảm đáng kể gánh nặng vận hành và cải thiện khả năng sinh lời”, SSI Research lưu ý.
Quỳnh Lê