Theo quy định của luật, các loại tài sản phải đấu giá gồm: Quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Quyền khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản; Quyền sử dụng tần số vô tuyến điện theo quy định về tần số vô tuyến điện; Quyền sử dụng mã, số viễn thông và tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” theo quy định của pháp luật viễn thông;
Tài sản cố định của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Tài sản là hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia;
Tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; Tài sản của doanh nghiệp phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; Nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật...
Tiếp tục nghiên cứu việc giảm thời gian đào tạo nghề cho đấu giá viên
Trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua, trình bày Báo cáo tóm tắt một số vấn đề lớn tiếp thu, chỉnh lý và giải trình dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, ngày 26/6 vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã có Báo cáo số 896/BC-UBTVQH15 về việc tiếp thu, chỉnh lý và giải trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản.
Theo đó, về tài sản đấu giá (Điều 4), có ý kiến đề nghị đấu giá biển số xe phải thực hiện theo quy trình, thủ tục đấu giá tài sản của Luật Đấu giá tài sản; đề nghị bổ sung quy định đấu giá tín chỉ carbon, UBTVQH cho rằng, đối với đấu giá biển số xe, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 3 của Luật hiện hành theo hướng “việc đấu giá biển số xe được thực hiện theo quy định của pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ”, nhằm bảo đảm phù hợp với tính chất đặc thù của việc đấu giá biển số xe cũng như sự thống nhất với dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ đang được trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Đối với đấu giá tín chỉ carbon, tại điểm p khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật đã có quy định chung mang tính khái quát đối với tài sản khác mà pháp luật chuyên ngành quy định phải đấu giá để bảo đảm tính bao quát, đầy đủ và dự liệu trước các tài sản có thể phát sinh trong tương lai, trong đó có tín chỉ carbon. Đồng thời, đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá khi tổng kết việc thực hiện thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon để có cơ sở đưa loại tài sản này ra đấu giá theo trình tự, thủ tục của Luật Đấu giá tài sản.
Về hành vi bị nghiêm cấm (Điều 9), ông Vũ Hồng Thanh cho biết, UBTVQH tiếp thu và chuyển quy định tại Điều 39 về tổ chức hành nghề đấu giá tài sản không được sử dụng tiền đặt trước của người tham gia đấu giá vào bất kỳ mục đích nào khác vào điểm d2 khoản 2 Điều 9 như tại dự thảo Luật.
Đối với ý kiến đề nghị đánh giá kỹ lưỡng việc bỏ quy định tại Điều 12 của Luật hiện hành; nghiên cứu giảm thời gian đào tạo nghề đấu giá đối với các đối tượng được miễn tại Điều 12 của Luật hiện hành và bổ sung các đối tượng khác có liên quan, tại Báo cáo số 842/BC-UBTVQH15 và hồ sơ Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 của UBTVQH đã có giải trình và đánh giá về việc bỏ quy định tại Điều 12 về miễn đào tạo nghề đấu giá đối với một số đối tượng như: luật sư, công chứng viên, thừa phát lại, quản tài viên, trọng tài viên, thẩm phán, kiểm sát viên, chấp hành viên.
Ngoài ra, trong thực tế thời gian đào tạo 3 tháng là không đủ để trang bị các kiến thức, kỹ năng hành nghề cho đấu giá viên. Tuy nhiên, trong thời gian tới khi đánh giá, tổng kết sửa đổi toàn diện Luật Đấu giá tài sản, đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu việc giảm thời gian đào tạo nghề đối với các đối tượng được miễn đào tạo tại Điều 12 của Luật hiện hành và các đối tượng khác có liên quan (nếu có), bảo đảm phù hợp và khả thi.
Tiếp thu ý kiến đại biểu về tổ chức hành nghề đấu giá tài sản (Điều 24), UBTVQH chỉnh lý rõ hơn quy định tại điểm a1 khoản 1 Điều 24 theo hướng đối với tài sản thuộc sở hữu cá nhân thì các bên có quyền lựa chọn hoặc thỏa thuận áp dụng hay không áp dụng một, một số hoặc toàn bộ quy định về trình tự, thủ tục đấu giá của Luật Đấu giá tài sản.
Quy định về tiền đặt trước phải tuân thủ theo quy định của Luật Đấu giá tài sản
Về tiền đặt trước và xử lý tiền đặt trước (Điều 39), có ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định tiền đặt trước khi đấu giá quyền sử dụng đất tại điểm b khoản 1a Điều 39 để phù hợp với quy định tại điểm c khoản 3 Điều 1 của Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ. UBTVQH cho biết, việc quy định cứng mức tiền đặt trước 20% như quy định tại Nghị định số 10/2023/NĐ-CP hiện nay đang bộc lộ hạn chế, vướng mắc. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 7 Điều 125 của Luật Đất đai năm 2024, trình tự, thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản. Vì vậy, quy định về tiền đặt trước thuộc trình tự, thủ tục đấu giá nên phải tuân thủ theo quy định của Luật Đấu giá tài sản.
Về quyền và nghĩa vụ của người có tài sản đấu giá (Điều 47), UBTVQH cho biết, Luật Đấu giá tài sản chỉ quy định trình tự, thủ tục đấu giá tài sản, còn việc đưa tài sản ra đấu giá theo lô hay từng tài sản độc lập là do người có tài sản đấu giá quyết định theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của ĐBQH, để tăng cường tính rõ ràng, minh bạch, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 34 về một trong những nội dung chính của Quy chế cuộc đấu giá bao gồm: “Tên tài sản hoặc danh mục tài sản, lô tài sản hoặc tài sản độc lập, số lượng, chất lượng của tài sản đấu giá; nơi có tài sản đấu giá; giấy tờ về quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản đấu giá;”.
Theo đó, đối với từng cuộc đấu giá, tổ chức hành nghề đấu giá tài sản sẽ ban hành Quy chế cuộc đấu giá trước ngày niêm yết việc đấu giá tài sản, trong đó phải xác định rõ việc đấu giá tài sản theo lô hay tách tài sản độc lập; đồng thời, phải thông báo công khai Quy chế cuộc đấu giá trên Cổng Đấu giá tài sản quốc gia, bảo đảm rõ ràng, minh bạch để mọi đối tượng có thể tiếp cận thông tin về cuộc đấu giá, từ đó quyết định đăng ký tham gia cuộc đấu giá hay không.
Đối với quy định về xử lý vi phạm đối với người trúng đấu giá không nộp tiền trúng đấu giá (Điều 70), UBTVQH làm rõ thêm, dự thảo Luật chỉ quy định chế tài xử lý đối với trường hợp người trúng đấu giá quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền trúng đấu giá vì đây là 2 loại tài sản đặc thù, có giá trị lớn, ảnh hưởng lớn đến thị trường bất động sản, chứng khoán, giá cả vật liệu xây dựng… Do đó, việc bổ sung quy định cấm người trúng đấu giá đối với những tài sản này tham gia đấu giá trong thời hạn nhất định tùy theo tính chất, mức độ vi phạm nhằm ngăn chặn các hành vi tiêu cực, gây lũng đoạn thị trường, ngăn chặn tình trạng bỏ cọc hoặc thổi phồng giá trị tài sản để trục lợi trong đấu giá tài sản.
Đề xuất của ĐBQH về việc “người trúng đấu giá phải thanh toán khoản tiền chênh lệch giữa kết quả đấu giá và tiền trúng đấu giá theo kết quả đấu giá được tổ chức lại liền kề sau đó, nếu tiền trúng đấu giá theo kết quả đấu giá lại thấp hơn” là xác đáng. Tuy nhiên, việc bảo đảm tính khả thi khi áp dụng cần phải được nghiên cứu, đánh giá. Do đó, đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu để có cơ sở tiếp thu khi sửa đổi toàn diện Luật Đấu giá tài sản.
Minh Nhật