Ngân hàng “hiến kế” để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8% trở lên

09/03/2025 - 15:22
(Bankviet.com) Phát biểu tại Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), đại diện các ngân hàng đã có những phát biểu tâm huyết để góp phần vào tăng trưởng 2 con số của đất nước, bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững.

Tổng Giám đốc Agribank Phạm Toàn Vượng: Agribank giữ nguyên mặt bằng lãi suất từ năm 2024 và tiếp tục giảm lãi suất cho vay

agribank-1740631109207421425645.jpg

Năm nay, Agribank quyết tâm tăng trưởng 2 con số, cam kết giữ nguyên mặt bằng lãi suất từ năm 2024 và tiếp tục giảm lãi suất cho vay.

Về cho vay tín dụng, Agribank đang xúc tiến sửa Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đây là giải pháp rất lớn, nếu được sửa đổi, Agribank sẽ có gần 1 triệu tỷ để có thể cung cấp cho nền kinh tế.

Đối với chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết 33 của Chính phủ, Agribank đã đăng ký tham gia chương trình với quy mô tín dụng là 30.000 tỷ đồng và triển khai trong vòng 10 năm. Đến nay, Agribank đã cấp tín dụng cho 13 chủ đầu tư và gần 300 khách hàng cá nhân mua nhà của các dự án với tổng mức tín dụng đã cấp gần 4.000 tỷ đồng và dư nợ đạt trên 1.000 tỷ đồng. Năm 2024, Agribank đứng đầu về cho vay nhà ở xã hội. Hiện nay, Agribank đang tiếp cận và xem xét cấp tín dụng đối với 5 dự án, tổng mức cấp tín dụng dự kiến gần 3 nghìn tỷ đồng.

Tuy quy mô vốn đã tăng lên nhưng trên thực tế công tác phát triển nhà ở xã hội đã và đang gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Nguyên nhân xuất phát từ các vướng mắc pháp lý, thủ tục hành chính phức tạp... khiến không ít dự án bị đình trệ hoặc chậm tiến độ, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu xây dựng nhà ở cho người dân thu nhập thấp. Cuối năm 2024 rất nhiều dự án được phê duyệt bổ sung nhưng phía nhà đầu tư vẫn chưa mạnh dạn đầu tư. Thậm chí, nhiều dự án mặc dù Agribank cam kết cho vay nhưng chủ đầu tư chưa dám vay.

Về phía người mua nhà, Agribank cố gắng giải quyết tối đa cho người mua nhà trong khả năng có thể, lãi suất thấp nhất và thời hạn cho vay dài nhất.

Với Đề án "Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030", Agribank đã tích cực tham gia xây dựng chương trình tín dụng cho nhà ở xã hội với cam kết phân bổ 30.000 tỷ đồng để hỗ trợ chủ đầu tư và người mua nhà tiếp cận nguồn vốn ưu đãi. Đến nay, Agribank là ngân hàng thương mại dẫn đầu về triển khai cho vay.

Về kiến nghị, ngoài các giải pháp liên quan trực tiếp đến ngành Ngân hàng, là một doanh nghiệp Nhà nước, chúng tôi rất vướng trong việc bổ sung các điều kiện về trang bị cơ sở vật chất, tài sản để hoạt động. Hiện tại, thủ tục đầu tư rất phức tạp, không tháo gỡ được. Rất mong Chính phủ có cơ chế rút ngắn và tạo điều kiện để Agribank bổ sung cơ sở vật chất, làm việc.

Để tăng cường năng lực cạnh tranh, Agribank rất mong các cơ quan đơn vị làm việc minh bạch, đúng thực chất trong quản lý nhà nước, kiểm toán đưa ra số liệu chính xác liên quan đến doanh nghiệp để Ngân hàng để có thể giảm thời gian thẩm định cho vay.

Với những dự án lớn, trọng điểm quốc gia, Agribank sẵn sàng tham gia, đồng thời, đề nghị có cơ chế đặc thù để giảm thời gian thẩm định hồ sơ và có cơ chế phát hành trái phiếu đặc thù (không dùng đến trái phiếu Chính phủ nữa) thì hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tham gia được với số vốn rất lớn.

Chủ tịch HĐQT BIDV Phan Đức Tú: Năm 2025, ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ đưa hàng triệu tỷ đồng ra để phục vụ cho nền kinh tế

bidv-1740631481897736799547.jpg

Các ngân hàng thương mại Nhà nước nhận thức sâu sắc trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước trước thời cơ, yêu cầu của đất nước trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm các cân đối lớn, kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế.

Ngay từ đầu năm, BIDV đã ban hành các Nghị quyết, Quyết định, Chương trình hành động để kịp thời thực hiện chỉ đạo của Chính phủ theo Nghị quyết 01 và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ nhất, hệ thống các ngân hàng thương mại đã rất khẩn trương cung ứng vốn và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tổng tài sản của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay, bao gồm Agribank, Vietcombank, Vietinbank, MB, BIDV, là 10.590.000 tỷ đồng, chiếm 46,5% tổng giá trị tài sản của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam.

Dư nợ tín dụng 5 ngân hàng thương mại là 7.726.000 tỷ đồng, chiếm 49,5% tổng dư nợ của nền kinh tế. Nếu năm nay, với chỉ đạo của Chính phủ, NHNN, tăng 15-16%, các ngân hàng sẽ đưa hàng triệu tỷ đồng ra để phục vụ cho nền kinh tế. Vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng chủ yếu tập trung theo chỉ đạo của Chính phủ, các chương trình tín dụng theo chỉ đạo, các động lực tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, như công nghiệp chế biến, chế tạo, xuất khẩu, nông nghiệp công nghệ cao, khu công nghiệp, chế biến thực phẩm, dược phẩm, đặc biệt là các dự án nền tảng cho hạ tầng giao thông, logistics, viễn thông, năng lượng, kinh tế xanh… Đồng thời, triển khai các chương trình cho vay kích cầu tiêu dùng, cá nhân… Đây là một trong những đảm bảo khả năng thanh toán cho nền kinh tế cũng như kích cầu thông qua tăng tổng cầu của nền kinh tế.

Thứ hai, các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng như BIDV tiếp tục cải tiến quy trình, tăng cường ứng dụng công nghệ, phát triển ngân hàng số, triển khai cho vay bằng phương tiện điện tử… Hiện nay công nghệ của các ngân hàng thương mại Nhà nước không thua kém bất cứ ngân hàng nước ngoài nào.

Thứ ba, các ngân hàng thương mại Nhà nước đều nghiên cứu áp dụng thông lệ quản trị tốt, được các đối tác, tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá rất cao.

Cùng với 3 trụ cột thể hiện năng lực vượt trội (gồm chi phối về quy mô, dẫn đầu về công nghệ và tiên tiến về quản trị), các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng đang thực hiện tốt vai trò chủ lực, chủ đạo dẫn dắt thị trường theo yêu cầu của Đảng, Chính phủ.

Trên thực tế, 5 ngân hàng thương mại Nhà nước đã triển khai thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ khi là nòng cốt trong thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, tham gia thị trường ngoại hối, bình ổn tỉ giá, giá vàng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; cung ứng vốn cho các chương trình tín dụng, các dự án nền tảng quốc gia.

Đồng thời, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng cho nền kinh tế và tạo điều kiện cho các khách hàng tiếp cận vốn ngân hàng ở tất cả các thành phần khắp đất nước; chủ động, nòng cốt kéo giảm lãi suất và duy trì lãi suất thấp; và duy trì lãi suất thấp nhất thị trường.

Các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, trách nhiệm với cộng đồng. Hiện các ngân hàng thương mại Nhà nước là một trong những đơn vị là nòng cốt trong việc tham gia các chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, thực hiện tốt 2 chương trình tín dụng về nhà ở xã hội; và đang xây dựng chương trình tín dụng cho người trẻ theo gợi ý của Thủ tướng.

Mặt khác, các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng đã và đang phối hợp rất chặt chẽ với các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước trong triển khai nhiệm vụ kinh doanh, phát triển các dự án lớn, nền tảng của đất nước và thực hiện vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Về kiến nghị, BIDV đề xuất, Chính phủ và các bộ, ngành có chiến lược mạnh mẽ thu hút các nguồn vốn phục vụ nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung hạn thông qua thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài. Phát triển ổn định và nâng cấp thị trường chứng khoán, trái phiếu, cổ phiếu và thông qua thu hút các nguồn lực của các nhà đầu tư… cũng như nâng cao năng lực phục vụ kinh tế của hệ thống các ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng thương mại Nhà nước.

Đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay, nguyên tắc lớn nhất để chúng tôi phục vụ kinh tế đất nước là năng lực tài chính. Với yêu cầu cung ứng vốn cho nền kinh tế lên đến 15,6% và có thể cao hơn trong thời gian tới, vốn tự có của các ngân hàng thương mại phải tăng lên tương ứng. Các ngân hàng lớn khu vực ASEAN đã áp dụng tiêu chuẩn Basel III, trong khi hiện nay Việt Nam chưa áp dụng. Đây là áp lực rất lớn với các ngân hàng thương mại Nhà nước khi vừa phải tăng trưởng để phục vụ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nhưng vừa phải đáp ứng được các tiêu chuẩn, yêu cầu theo thông lệ quốc tế. Do vậy, đề nghị Quốc hội, Chính phủ có chủ trương cho các ngân hàng thương mại Nhà nước giữ lại lợi nhuận để lại để tăng vốn điều lệ như trước đây Nghị quyết 43 của Quốc hội về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế giai đoạn 2021-2023.

BIDV cũng đề xuất Chính phủ chỉ đạo sớm hoàn thiện khung pháp lý, nhất là luật hóa các nội dung phù hợp với thực tiễn, đã được thực tiễn kiểm chứng trong Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, quyết liệt đẩy nhanh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém, sàng lọc, lành mạnh hóa hệ thống và giảm cạnh tranh không lành mạnh. Những điều này sẽ tạo điều kiện để ngân hàng kéo giảm lãi suất và có thể tăng thêm nguồn vốn lưu chuyển trong nền kinh tế.

Đề xuất Chính phủ sớm ban hành cơ chế thử nghiệm sandbox cho tất cả các mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

BIDV cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành sớm hoàn thiện trung tâm dữ liệu quốc gia, luật hóa các vấn đề liên quan tới dữ liệu, bảo mật, quản trị dữ liệu, tăng cường chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan chức năng với doanh nghiệp, người dân vì dữ liệu thông tin là tài sản rất quý, vừa là cơ sở để đưa ra quyết định chính sách, vừa là cơ sở để giám sát. Cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia với chi phí hợp lý.

Mặt khác, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tiếp tục ổn định chính sách, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các dự án đầu tư theo phương thức hợp tác đầu tư công - tư.

Chủ tịch HĐQT Vietcombank Nguyễn Thanh Tùng: Vietcombank đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao gấp đôi mục tiêu tăng trưởng GDP

vietcombank-1740622363220439318586.jpg

Năm 2025, Vietcombank đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng tối thiểu 16%, cao gấp đôi mục tiêu tăng trưởng GDP. Vietcombank sẽ tập trung tín dụng vào các lĩnh vực có tính chất động lực cho tăng trưởng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng, năng lượng, giao thông và sản xuất phục vụ xuất khẩu.

Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước hướng tới phát triển bền vững và đóng góp vào sự bứt phá của nền kinh tế trong thời gian tới, Vietcombank kiến nghị tập trung vào bốn nhóm vấn đề chính để nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước gồm: Nâng cao hiệu quả hoạt động; thúc đẩy ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo; thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường quản trị rủi ro, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động và thách thức.

Cụ thể, để nâng cao hiệu quả hoạt động, các doanh nghiệp Nhà nước cần sớm áp dụng các chuẩn mực quản trị tiên tiến, hướng đến các tiêu chuẩn quốc tế. Trước mắt, việc tinh giản bộ máy là cần thiết nhằm thiết lập hệ thống quản trị và kiểm soát nội bộ theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISC.

Về cơ chế chính sách, Vietcombank kiến nghị Chính phủ tiếp tục có những chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước phát triển bền vững. Vietcombank đề xuất có thêm cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp trong nước có hàm lượng sản xuất nội địa cao, tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước để thúc đẩy chuỗi cung ứng trong nước và nâng cao giá trị gia tăng. Điều quan trọng là các doanh nghiệp trong nước cần gắn kết trách nhiệm của người đứng đầu cũng như toàn thể người lao động để tạo ra động lực trong hoạt động quản trị, sản xuất và kinh doanh.

Về thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động, cần có cơ chế thử nghiệm và chính sách hỗ trợ triển khai mô hình kinh doanh mới, đặc biệt là những sáng kiến ứng dụng công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. Điều này không chỉ giúp gia tăng năng suất mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trước sự cạnh tranh khốc liệt từ doanh nghiệp nước ngoài.

Về chính sách thuế, cần có ưu đãi phù hợp dành cho các doanh nghiệp có tiềm năng trở thành trụ cột trong chuỗi cung ứng của các ngành kinh tế chủ chốt tại Việt Nam. Chính sách không chỉ hỗ trợ những doanh nghiệp đã có kết quả tốt mà còn cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiềm năng phát triển, đóng góp vào nền kinh tế trong dài hạn.

Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế riêng, linh hoạt để cho phép các doanh nghiệp nhà nước chấp nhận rủi ro có kiểm soát khi đầu tư vào các dự án có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo hoặc đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh quốc gia, đặc biệt trong các lĩnh vực như năng lượng và quốc phòng.

Liên quan đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn và tổng công ty lớn, cần có những cơ chế đặc thù để thu hút và tuyển dụng nhân lực chất lượng cao cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt, cần ưu tiên các cơ chế đãi ngộ đối với những nhân sự có năng lực trong các lĩnh vực như chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Hiện tại, mức thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chênh lệch đáng kể so với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài, khiến việc thu hút và giữ chân nhân tài gặp nhiều khó khăn.

Mặt khác, trong bối cảnh kinh tế thế giới đối mặt với nhiều thách thức, Vietcombank kiến nghị cần tăng cường quản trị rủi ro. Cùng với đó, trong quá trình sắp xếp, tinh giản bộ máy cần sớm có các đầu mối xử lý các công việc liên quan đến triển khai dự án của doanh nghiệp.

Vietcombank nhận thấy cần có sự điều chỉnh trong quy định số 13 của Thủ tướng Chính phủ về các dự án đầu tư có quy mô lớn (vượt 15-25% tổng vốn tự có của khách hàng). Việc sửa đổi này sẽ giúp hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước, có điều kiện cấp tín dụng cho các tập đoàn lớn như EVN, PVN, TKV… trong việc triển khai các dự án lớn, quan trọng trong thời gian tới.

Minh Đức

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ