Nhôm hiện đang là mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam, vì thế đây cũng là mặt hàng thường xuyên đối diện với các vụ điều tra phòng vệ thương mại của thị trường xuất khẩu. Ông Nguyễn Minh Kế - Chủ tịch Hiệp hội Nhôm Việt Nam đã có cuộc trao đổi về vấn đề này với Báo Công Thương.
Sản phẩm nhôm Việt Nam đang đối diện với nhiều vụ điều tra phòng vệ thương mại. Ảnh: Tạp chí Công Thương |
Nhôm đang là mặt hàng thường xuyên đối diện với các vụ điều tra phòng vệ thương mại trong đó có điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại của thị trường xuất khẩu. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?
Nhôm là vật liệu đa dụng, có mặt trong mọi ngành nghề, đời sống và là mặt hàng đang có nhiều lợi thế cạnh tranh trên thị trường, nên đang đối mặt với không ít các vụ việc phòng vệ thương mại của thị trường xuất khẩu. Gần đây, tần suất các vụ việc điều tra phòng vệ thương của thị trường xuất khẩu ngày một gia tăng, trong đó có các vụ điều tra chống lẩn tránh phòng vệ thương mại.
Những năm trước đây, số vụ việc điều tra phòng vệ thương mại với nhôm Việt Nam còn khá ít, chỉ có 3 vụ trong 5 năm (2018 - 2022) đến từ thị trường Úc và Ai Cập (năm 2021), Hoa Kỳ (năm 2018). Nhìn chung sức ép của các vụ việc này còn chưa cao. Tuy nhiên, chỉ tính riêng năm 2023, nhôm đối mặt với 3 vụ việc phòng vệ thương mại từ thị trường Hoa Kỳ.
Tháng 5/2023, có đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm khung pin năng lượng mặt trời xuất xứ Việt Nam, vụ việc này tuy chưa được phía Hoa Kỳ khởi kiện, song vẫn đang là nguy cơ cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm này. Đặc biệt, tháng 10/2023 có vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá đối với dây và cáp nhôm Việt Nam.
Ngoài ra, vụ việc Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm nhôm đùn ép xuất xứ từ 15 quốc gia, trong đó có Việt Nam với mức thuế chống bán phá giá đề xuất hiện nay là 41,84%. Hiện vụ việc đang trong quá trình điều tra và đây được coi là vụ phòng vệ thương mại lớn nhất của ngành nhôm thế giới.
Ông Nguyễn Minh Kế - Chủ tịch Hiệp hội Nhôm Việt Nam |
Những khó khăn, hạn chế và thiệt hại của doanh nghiệp trước các vụ điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại?
Đến nay, ngành nhôm có hai vụ điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại do Hoa Kỳ khởi xướng, trong đó liên quan đến nhôm Trung Quốc.
Cụ thể, năm 2018, vụ việc nhôm định hình bị cáo buộc lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại liên quan đến nhôm từ Trung Quốc đối với một số sản phẩm nhôm định hình. Vụ thứ hai vừa khởi xướng điều tra vào tháng 10 vừa qua, là vụ điều tra đối với sản phẩm dây và cáp nhôm.
Các vụ việc trên đều xuất phát từ việc có một số doanh nghiệp của thương nhân Trung Quốc hợp tác, làm ăn với thương nhân Việt Nam để nhập khẩu nguyên liệu gia công sản phẩm xuất khẩu sang Hoa Kỳ để né tránh các biện pháp phòng vệ thương mà Hoa Kỳ áp dụng đối với nhôm Trung Quốc.
Trong khi năng lực ứng phó phòng vệ thương mại của doanh nghiệp Việt Nam chưa thể đứng ra bảo vệ quyền lợi mà phải nhờ hỗ trợ tư vấn tham gia các vụ kiện với chi phí lớn, thậm chí rất lớn. Quá trình bị điều tra đã khiến cho các đối tác xem xét dừng hợp đồng và hệ lụy là giảm doanh thu, mất thị trường. Vì khi bắt đầu có thông tin điều tra là đối tác đã dè chừng, xem xét lại các đơn hàng tương lai để tránh rủi ro, thiệt hại do bị áp thuế phòng vệ thương mại.
Ngoài ra, khi sản phẩm của chúng ta vướng vào bất cứ vụ việc phòng vệ thương mại nào thì uy tín, sản lượng của sản phẩm đó đều bị ảnh hưởng xấu trên thị trường quốc tế, gây tốn kém về chi phí cho doanh nghiệp, tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp chân chính.
Như vậy, thiệt hại từ các vụ kiện phòng vệ thương mại sẽ đe doạ tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành. Vậy ngành nhôm đã có sự chuẩn bị, sẵn sàng ứng phó ra sao trước các biện pháp phòng vệ thương mại, nhất là các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp này?
Trước các thách thức từ xu hướng bảo hộ hiện này, ngành nhôm cũng như ngành khác phải cải thiện năng lực về phòng vệ thương mại cho doanh nghiệp. Trong đó, cần phải cung cấp, hướng dẫn cho doanh nghiệp biết thế nào là phòng vệ thương mại cũng như quy định của biện pháp này.
Thời gian qua, Hiệp hội Nhôm Việt Nam thường xuyên phối hợp với Cục Phòng vệ thương mại - Bộ Công Thương tổ chức tập huấn thông tin về phòng vệ thương mại; hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ, chứng từ để không bị động, bất ngờ trước vụ điều tra từ thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, Hiệp hội thường xuyên phối hợp cập nhật các cảnh báo sớm từ Bộ Công Thương; theo dõi các vụ điều tra phòng vệ thương mại trên thế giới, cũng như xu hướng điều tra đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam để có thông báo, hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó các vụ kiện.
Bên cạnh đó, chúng tôi luôn khuyến nghị doanh nghiệp chủ động lưu trữ có hệ thống dữ liệu, thông tin, hồ sơ chứng từ những năm qua; chuẩn bị kiến thức, con người và thậm chí dự phòng tài chính để sẵn sàng tham gia vào các cuộc điều tra phòng vệ thương mại.
Nhằm tránh các nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại đối ngành nhôm, ông có kiến nghị, đề xuất gì về cơ chế, chính sách cũng như các hoạt động hỗ trợ từ cơ quan chức năng, trong đó có Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương, thưa ông?
Với xu thế hiện nay, để tránh nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại là rất khó, cần có tổng hợp rất nhiều giải pháp. Bởi, câu chuyện phòng vệ thương mại của ngành nhôm lúc này không còn đơn giản là xuất nhập khẩu hàng hóa như trước đây nữa. Do trong vài năm trở lại đây, có một "làn sóng" đầu tư của thương nhân Trung Quốc vào xây dựng các nhà máy sản xuất nhôm định hình quy mô lớn tại Việt Nam.
Thông qua hoạt động đầu tư, một số thương nhân nước ngoài đã lợi dụng thị trường Việt Nam để “né” thuế chống bán phá giá đối với nhôm Trung Quốc (vụ AD05) và một phần phục vụ xuất khẩu vì khi hàng hóa này có xuất xứ Việt Nam thì tiếp tục “né” được thuế phòng vệ thương mại đối với nhôm Trung Quốc mà nhiều thị trường lớn đang áp dụng như Hoa Kỳ, châu Âu, Úc… Như vậy, với xu hướng này thì nguy cơ nhôm Việt bị điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại là rất lớn và hiện ngành nhôm đang đối mặt với vấn đề này.
Trước rủi ro đó, cần có sự phối hợp của các cơ quan chức năng đến từ nhiều Bộ ngành, chính quyền địa phương trong việc kiểm soát các hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành nhôm. Chúng ta cần có một cơ chế phù hợp, hạn chế các dự án mới mà doanh nghiệp nhôm Việt Nam đang dư thừa năng lực. Bên cạnh đó, cần xây dựng đề án phát triển lâu dài về ngành nhôm, trên cơ sở đó kêu gọi đầu tư phù hợp, tránh tình trạng lợi dụng, "tráng men" xuất xứ từ các doanh nghiệp nước ngoài để xuất khẩu, qua đó chúng ta mới bảo vệ được quyền lợi cho doanh nghiệp ngành nhôm non trẻ của đất nước.
Xin cảm ơn ông!
Bảo Thoa