Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) có hiệu lực vào ngày 1/1/2022. Hiệp định bao gồm sự tham gia của các nước Australia, Trung Quốc đại lục, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc và 10 nước thành viên khối ASEAN (Indonesia đã phê duyệt vào tháng 8/2022, Philippines vẫn đang trong giai đoạn phê duyệt cuối cùng).
Phạm vi của RCEP không rộng lớn như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tuy nhiên, RCEP có độ bao phủ phù hợp với các quy tắc và thủ tục giao thương, loại bỏ thuế quan đối với hơn 90% hàng hóa. Đặc biệt, với số lượng lớn các quốc gia tham gia, các quy tắc xuất xứ hàng hóa mở rộng của RCEP cho phép các doanh nghiệp địa phương có thể hưởng lợi từ việc xuất khẩu miễn thuế trong khối, miễn là một số nguyên vật liệu đầu vào của họ (thường khoảng 40%) có nguồn gốc từ các thành viên RCEP khác.
Tám tháng thực hiện và kết quả đạt được
Trong “Thực thi RCEP: Nhìn lại quá trình thực thi trong bối cảnh thách thức thương mại” vừa được HSBC công bố cho biết, kể từ khi có hiệu lực vào đầu năm, một số doanh nghiệp đã nhanh chóng tận dụng lợi thế của hiệp định mới.
Lợi ích trực tiếp lớn nhất mà các nền kinh tế tham gia vào RCEP có được chính là các ưu đãi thuế quan. Theo hiệp định, thuế quan áp đặt trên hơn 90% các loại hàng hóa sẽ được loại bỏ, dù điều này sẽ được thực hiện theo từng giai đoạn trong vòng 20 năm (các lĩnh vực nhạy cảm và chiến lược sẽ được miễn trừ). Loại bỏ thuế quan trên diện rộng sẽ khuyến khích đầu tư, các điều khoản về sở hữu trí tuệ và thương mại điện tử trong khối.
Các dự đoán cho thấy một số thị trường như Nhật Bản hay Hàn Quốc sẽ đạt được bước nhảy vọt lớn nhất về mặt xuất khẩu vào năm 2030 (ADB, 2021). Xuất khẩu được miễn thuế của Nhật tới Trung Quốc và từ Trung Quốc sang Nhật, từ mức 25% và 57% vào ngày RCEP có hiệu lực, sẽ có khả năng tăng lên 86% và 88% (Global Times, 24/2/2022).
Hơn nữa, RCEP là hiệp định thương mại tự do đầu tiên có cả Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc tham gia. Đây là 3 trong số những nền kinh tế kỹ thuật tiên tiến ở Đông Á. Điều thú vị là ADB dự báo rằng: thị phần xuất khẩu toàn cầu tại Đông Á sẽ giảm trong thập niên tiếp theo, khi các công ty chuyển hướng các cơ sở sản xuất của mình sang những thị trường đang phát triển. Tuy nhiên, bằng cách kết nối các nhà sản xuất chặt chẽ hơn với chuỗi cung ứng khu vực, điều này cuối cùng sẽ củng cố cơ sở sản xuất còn lại của họ, cho phép tận dụng nguồn cung ứng các vật liệu có giá cả cạnh tranh hơn.
Theo HSBC, tác động đối với xuất khẩu của các thành viên ASEAN trước và sau khi ký kết hiệp định có thể không nổi bật như các thị trường phát triển (ASEAN và RCEP, 1/12/2020). Các hiệp định thương mại tự do của ASEAN đã có từ trước với những thành viên RCEP cũng đã xóa bỏ thuế quan áp đặt trên 86% đến 90% hàng hóa. Ngoài ra, theo ADB, nói chung, các nước RCEP sẽ đóng góp đến 30% sản lượng xuất khẩu toàn cầu vào năm 2030.
RCEP sẽ giúp Việt Nam tăng thu nhập thực tế lên đến gần 5% vào năm 2035
HSBC cho rằng, RCEP không chỉ giúp thúc đẩy xuất khẩu, mà còn có những ảnh hưởng tích cực gián tiếp khác đến thu nhập của một quốc gia, nhờ vào chiều sâu của hiệp định. Nhiều thành viên có những hạn chế nghiêm ngặt đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Chỉ số Hạn chế quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài của OECD năm 2020 (the OECD Foreign Direct Investment Regulatory Restrictiveness Index), Indonesia đứng đầu danh sách trong khi Trung Quốc và New Zealand lần lượt chiếm vị trí thứ ba và thứ tư. Hiệp định thương mại tự do mở ra nhiều cơ hội đầu tư trong khối RCEP và cũng có thể thúc đẩy đầu tư trực tiếp từ các công ty có trụ sở bên ngoài khu vực muốn tận dụng hiệp định này. Theo IMF, về mặt nguyên tắc, tự do hóa FDI, dù được thúc đẩy bởi RCEP hay là do đơn phương, đều có thể giúp thu nhập thực tế từ thương mại tăng hơn 15% đối với Philippines, Malaysia và Thái Lan.
RCEP vượt xa các hiệp định thương mại tự do ASEAN hiện nay về mặt cơ hội đầu tư. Trước khi có hiệp định này, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật đã là những nhà đầu tư hàng đầu tại một số nền kinh tế ASEAN. Tuy nhiên, mở rộng các thị trường ASEAN hơn nữa sẽ thu hút thêm đầu tư vào công nghệ sản xuất mới, giúp thúc đẩy năng suất lao động hơn. Hơn nữa, các thành viên đã cam kết xem xét việc áp dụng điều khoản giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư – nhà nước trong thời gian 5 năm. Theo Petri và Plummer (2018), xét về mọi mặt, tự do hóa FDI có thể giúp thu nhập thực tế của tất cả các nước thành viên RCEP tăng đến 0,53%.
Gia tăng thương mại và dòng vốn FDI do vậy cũng sẽ nâng cao năng suất hơn. Chi phí nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào sẽ giảm, nhờ thế sẽ đẩy mạnh sản xuất địa phương. “Chúng tôi mong đợi sẽ có sự thay đổi trong tính cạnh tranh giữa các lĩnh vực khác nhau. Một cách tự nhiên, nguồn lực và vốn sẽ được dùng cho ngành có tính cạnh tranh cao nhất”, các chuyên gia của HSBC mong đợi.
Thêm nữa, việc dỡ bỏ các rào cản với đầu tư nước ngoài có thể thúc đẩy sự phân bổ nguồn lực và công nghệ tốt hơn. Kết quả là điều này sẽ tạo nên một “cú huých” năng suất ở nhiều lĩnh vực, trong khi đẩy mạnh sự chuyển dịch nguồn lực khỏi những ngành không còn tính cạnh tranh nữa. Thuế quan giảm 10% có thể khiến năng suất lao động tăng thêm trung bình 4,8%. “Tất nhiên, lợi ích không được phân chia đồng đều giữa các thành viên và lĩnh vực. Vài thị trường, như Việt Nam và Malaysia, sẽ có khả năng đạt được mức tăng thu nhập thực tế lên đến gần 5% vào năm 2035 nhờ cú huých năng suất”, báo cáo viết.
Còn những quốc gia phát triển như Nhật Bản sẽ có mức tăng năng suất thấp hơn nhưng vẫn được hưởng lợi nhờ tăng cường tích hợp chuỗi cung ứng và hỗ trợ khả năng cạnh tranh của các công ty địa phương.
Với RCEP, thị phần thương mại của các thành viên đã tăng trong nhiều năm qua. HSBC kỳ vọng, sự gia nhập của Hồng Kông (Trung Quốc) sẽ thúc đẩy hơn nữa thu nhập thực tế tại các nền kinh tế châu Á. Tổng hợp GDP thực tế của các nền kinh tế đã tham gia hiệp định, dự kiến vào năm 2030, không tính đến cú huých năng suất tiềm năng do RCEP tạo nên, HSBC kỳ vọng: “tỷ trọng GDP toàn cầu của các thị trường thành viên RCEP sẽ đạt 32,9%, tăng từ mức 31,7% của năm 2021”.
Lan Nguyễn