Yêu cầu chất lượng KCN đã ở mức cao hơn
Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, nhằm thực hiện chủ trương mở cửa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, năm 1991 mô hình Khu chế xuất (KCX), khu công nghiệp (KCN) xuất hiện ở Việt Nam.
Từ đó đến nay, cả nước có 435 KCN, KCX được thành lập với quỹ đất công nghiệp khoảng 90,2 nghìn ha, thu hút lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và các địa phương nói riêng.
Ông Trần Quốc Trung, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, KCN và khu kinh tế (KKT) đã có những đóng góp rất quan trọng đối với thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và của cả nước. Các KCN đã thực sự trở thành các khu vực trọng điểm, thu hút các nguồn vốn đầu tư và dự án lớn trong và ngoài nước, đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, góp phần tạo việc làm, nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Nhưng bên cạnh những đóng góp tích cực, việc phát triển các KCN trong thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế cần sớm khắc phục để phát triển bền vững và giữ được lợi thế cạnh tranh. Theo ông Trung, hạn chế rõ nhất đó là việc gia tăng các hoạt động sản xuất công nghiệp và hệ thống các KCN tại Việt Nam tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Cộng sinh công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong KCN hoặc giữa các KCN còn hạn chế. Các dịch vụ trong một số KCN chưa được cung cấp đầy đủ hoặc chất lượng chưa cao. Cùng với đó là An sinh xã hội trong các KCN có nơi còn chưa được bảo đảm.
Trước thực tế hiện nay, ông Trung cho biết, KCN phát triển theo hướng bền vững, đang trở thành tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư FDI với mục tiêu phát triển bền vững, lợi ích kinh tế song hành trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Nhiều địa phương và nhà đầu tư hạ tầng KCN đã xác định việc phát triển KCN theo mô hình KCN sinh thái là nhu cầu tất yếu, cấp bách để kiến tạo lợi thế cạnh tranh bền vững.
Phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu
Theo ông Trung, phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu, mà đang thực sự trở thành xu thế tất yếu. Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững và để các KCN đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư trong làn sóng đầu tư mới, cũng như để đón được dòng đầu tư chất lượng cao, việc phát triển KCN sinh thái là nhu cầu tất yếu, là cấp bách để đảm bảo lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.
Để phát triển KCN sinh thái bền vững, ông Trung đưa ra 9 lưu ý đói với các các địa phương có KCN, gồm:
Thứ nhất, tập trung đẩy mạnh việc chuyển đổi mô hình từ các KCN truyền thống sang phát triển mô hình KCN sinh thái và xây dựng các KCN mới theo mô hình sinh thái, mô hình KCN công nghệ cao, KCN chuyên ngành.
Thứ hai, lấy khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo làm trụ cột cho phát triển trong tương lai. Trong đó, chuyển hướng sang chủ động kiến tạo, tạo môi trường cho các doanh nghiệp công nghệ và startup được hình thành và phát triển. Dành quỹ đất và nguồn lực cho các dự án nghiên cứu và phát triển, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, tiết kiệm năng lượng...
Thứ ba, thu hút đầu tư có chọn lọc, trong các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên.
Thứ tư, phát triển sản xuất, công nghiệp, dịch vụ trên nguyên tắc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, gắn với liên kết phát triển vùng, hình thành cụm liên kết ngành.
Thứ năm, phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển hạ tầng xã hội và bảo đảm bền vững về môi trường. Theo đó phải quy hoạch và triển khai các giải pháp xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN. Đồng thời hoàn thiện hệ sinh thái công nghiệp - đô thị - dịch vụ, bảo đảm cho việc phát triển bền vững các KCN trên địa bàn tỉnh.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng nhà máy xử lý nước thải; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa tại ban quản lý KCN, kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư tại các KCN.
Thứ bảy, nâng cao năng lực cạnh tranh và sức hấp dẫn của các KCN tại địa phương, thông qua việc cải thiện cơ sở hạ tầng (giao thông, khu dịch vụ logistic); tăng cường nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Thứ tám, các địa phương cần phát triển các mô hình KCN dựa trên sự quản lý tiên tiến, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học và công nghệ, hợp tác, cộng sinh công nghiệp để sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu, năng lượng, tài nguyên, chia sẻ dịch vụ.
Cuối cùng, đẩy mạnh thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” để cắt giảm tối đa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Với những giải pháp đó, hệ thống các KCN sẽ tiếp tục phát huy được vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế, là động lực quan trọng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là điểm đến đầu tư của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới.
Tri Nhân