Khu công nghiệp trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Trong quá trình hình thành hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cụm từ khu công nghiệp (KCN) được nêu ra lần đầu tiên trong định nghĩa “Khu chế xuất” tại Luật số 6 – L/CTN ngày 23/12/1992 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam), với định nghĩa cụ thể:
“Khu chế xuất (KCX) – là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, bao gồm một hoặc nhiều xí nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, do Chính phủ quyết định thành lập”.
Đến năm 1996, quy định cụ thể về KCN mới được luật hóa chính thức tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (Luật số 52-l/CTN, ngày 11/11/1996), với quy định cụ thể: “là KCN sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dich vụ cho sản xuất công nghiệp, do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập” (1).
Đến Luật Đầu tư nước ngoài 2005 (Luật số 59/2005/QH11, ngày 29/12/2005) đã bổ sung định nghĩa loại hình hai khu mới: Khu công nghệ cao và Khu kinh tế. Cụ thể:
Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ;
Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Đến Luật Đầu tư 2014 (Luật số 67/2014/QH13) đã có qui định rõ hơn về Khu kinh tế (KKT): là khu vực có ranh giới địa lý xác định, gồm nhiều khu chức năng, được thành lập để thực hiện các mục tiêu thu hút đầu tư, phát triển kinh tế -xã hội và Bảo vệ quốc phòng an ninh (2).
Nhìn lại quá trình hoàn thiện xây dựng chính sách về các KCN nêu trên, cho thấy sự cẩn trọng trong quản lý nhà nước về KCN giai đoạn đầu mở cửa hội nhập kinh tế của Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới. Đó là không chỉ hướng đến số lượng các dự án đầu tư vào KCN, mà cả chất lượng, cũng như bảo vệ quốc phòng,an ninh (3). Đây là một định hướng phát triển KCN Việt Nam xuyên suốt trong nhiều năm tới đối với nhiệm vụ thu hút và sử dụng nguồn vốn nước ngoài.
Tuy việc luật hóa định nghĩa chính thức về KCN vào năm 1996 có chậm nhưng lại dựa trên thực tiễn đầu tư: Khi năm 1992 Tập đoàn Chứng khoán Nomura (Nhật Bản) sau tìm hiểu chính sách, môi trường đầu tư Việt Nam đã thành lập Công ty phát triển KCN Nomura – Hải Phòng (MHIZ). Công ty phát triển KCN Nomura – Hải Phòng (MHIZ) có tổng vốn đầu tư trên 140 triệu USD để đầu tư trên diện tích 153 ha đất và xây dựng một KCN đầu tiên có vốn nước ngoài tại Việt Nam kể từ sau khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam1987.
Liền trong một số năm sau đó, các KCN ở Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương… cũng đã được hình thành và phát triển.
Giai đoạn phát triển mạnh các KCN ở Việt Nam thuộc giai đoạn các năm 2000 -2020. Tính đến cuối năm 2023, theo số liệu của Bộ KHvà ĐT cả nước đã có 416 KCN đã thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 129,9 nghìn ha và tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 89,2 nghìn ha, trong đó có 4 khu chế xuất.
Trong số 416 KCN đã được thành lập có 296 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 92,2 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 63 nghìn ha và 119 KCN đang trong quá trình xây dựng với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 37,5 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 24,7 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN cả nước đạt khoảng 51,8 nghìn ha, đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 57,7%. Nếu tính riêng các KCN đã đi vào hoạt động có tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng 72,4%.
Góp phần thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt hiệu quả cao
Nhìn lại cả quá trình phát triển hệ thống KCN thời gian qua và kết quả thu hút đầu tư nước ngoài gần đây có thể nhận thấy: xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tập trung chủ yếu vào các KCN, KKT.
Số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các KCN, KKT trong những năm vừa qua thường chiếm tới 60-70% lượng vốn FDI thư hút được trong cả nước. Tỷ lệ này vẫn đang trong chiều hướng tăng lên, cho thấy KCN, KKT giữ một vai trò rất quan trọng về kinh tế đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam.
Những kết quả đạt được cho thấy, hệ thống KCN Việt Nam đã phát triển mạnh thời gian qua và có đóng góp rất tích cực, hiệu quả đối với nền kinh tế, tuy vậy, vẫn còn có những tồn tại cần được khắc phục và giải quyết sớm, đó là:
Tỷ lệ lấp đầy các KCN còn thấp, có đến 121/414 KCN vẫn đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng, chưa tận dụng hết được một lượng vốn lớn về đất đai của nền kinh tế;
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật của KCN đã được nâng cao nhưng chưa đủ các điều kiện cần thiết, hiện đại để cạnh tranh với các KCN trong khu vực và quốc tế;
Mô hình phát triển KCN còn theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực với động lực phát triển chủ yếu dựa vào tiềm năng về đất, chưa xây dựng và phát triển được nhiều mô hình KCN mới (KCN công nghệ cao, KCN sinh thái…) để tận dụng được các yếu tố thuận và đòi hỏi của các nhà đầu tư quốc tế về phát triển xanh, bảo vệ môi trường... đồng thời để đáp ứng được đòi hỏi của xu hướng phát triển kinh tế xanh của Việt Nam.
Ngoài ra, còn khá nhiều các tồn tại khác trong phát triển, quản lý các KCN, như: quy hoạch phát triển các KCN tại một số địa phương chưa sát với nhu cầu phát triển và khả năng thu hút vốn đầu tư; mô hình phát triển KCN còn chậm đổi mới… thiếu vắng các KCN sinh thái, KCN đô thị - dịch vụ… Do vậy, dù Nhà nước đang tập trung giải quyết các nhà ở cho người lao động trong các KCN và nhà ở xã hội nói chung nhưng bài toán này vẫn chưa thể giải xong “một sớm một chiều”.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định 35/2022 NĐ-CP ngày 28/5/2022 Quy định về quản lý KKT, KCN với các định nghĩa rõ lại các KCN như: khu chế xuất, KCN hỗ trợ, KCN chuyên ngành, KCN sinh thái, KCN công nghệ cao, KCN mở rộng, Phân KCN… Và quy định hướng dẫn chi tiết việc hình thành, quản lý và phát triển các loại hình KCN. Nhưng phát triển các KCN xanh để loại bỏ chất thải và giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường… vẫn còn nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, vẫn còn các quy định và định hướng phát triển các KCN được đưa ra nhưng nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp quy khác, trong các bộ luật liên quan (như đất đai, xây dựng, môi trường...), cùng với đó là thủ tục hành chính cần tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa.
Do đó, khắc phục được những hạn chế này mới có thể thúc đẩy nhanh việc phát triển các loại hình KCN có hiệu quả cao, theo đúng định hướng phát triển xanh và công nghệ cao đặt ra cho giai đoạn phát triển tới.
4 yếu tố cần có để phát triển khu công nghiệp
Trong nhiều tài liệu nghiên cứu về kinh tế, đầu tư và doanh nghiệp đã đề cập đến rất nhiều các yếu tố cần và đủ để phát triển doanh nghiệp vững mạnh làm cơ sở cho kinh tế phát triển. Có thể vì có nhiều mô hình được đề xuất đưa ra nhiều yếu tố khác nhau với các lập luận dài đi kèm làm người đọc khó nhớ, khó thực hiện nên việc áp dụng vào thực tiễn rất vất vả với các nhà đầu tư. Nên sẽ hiệu quả hơn với việc đưa ra các cụm từ ngắn gọn, dễ nhớ dựa trên kinh nghiệm.
Theo cách đúc kết kinh nghiệm ngắn gọn dễ thuộc, dễ nhớ, thì điều đúc rút ra được là các yếu tố cần để phát triển KCN hoàn chỉnh, hiện đại theo đúng định hướng được gói gọn ở 4 từ: Chế - Tài - Tâm -Tầm, cụ thể:
Chế: cơ chế quản lý nhà nước, bao gồm cả định hướng phát triển, hệ thống luật pháp chính sách và các quy định về quản lý hành chính đối với các thủ tục hành chính cần thực hiện;
Tài: nguồn tài chính (nguồn tiền) cần có để đầu tư và kinh doanh;
Tâm: tâm tốt, bên cạnh lợi ích của doanh nghiệp, của cá nhân… doanh nghiệp còn cần thực hiện tốt nhất các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với người lao động, với trách nhiệm xã hội cao;
Tầm: tầm nhìn của người lãnh đạo doanh nghiệp khi đánh giá và bao quát, nhận diện được xu hướng phát triển chung và tìm ra được cách tiếp cận xử lý phù hợp, hiệu quả nhất.
Như vậy, về cơ bản phát triển một KCN có thành công hay không phụ thuộc vào doanh nghiệp, doanh nhân – chủ đầu tư là chính. Vì trong cả 4 yếu tố cần có trên, về phía Nhà nước chỉ có 1 yêu cầu phải làm là gắn với từ Chế - đó là hoàn thiện cơ chế quản lý và phát triển KCN. Một yêu cầu phải làm này lại rất quan trọng và có ý nghĩa “bà đỡ” cho sự phát triển của hệ thống KCN. Tiếp đó, 3 yếu tố còn lại đòi hỏi phải có là “Tài – Tâm - Tầm” đều ở phía doanh nghiệp và phụ thuộc vào tài năng của người đứng đầu doanh nghiệp.
Tất nhiên về tổng thể, khi trao đổi là như vậy nhưng dưới tác động phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng khoa học học kỹ thuật (mà chúng ta hay nhắc đến là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0), đòi hỏi các doanh nghiệp còn phải tự vươn lên để trở thành doanh nghiệp số. Khi chuyển đổi số không còn là tầm nhìn và mục tiêu dài hạn, mà đã trở thành một thực tế bắt buộc. Các doanh nghiệp phải có được kiến thức, phương tiện kỹ thuật để tham gia vào quá trình chuyển đổi số của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, mới phát triển được mà không bị tụt hậu.
Tóm lại, phát triển hệ thống KCN Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển và đóng góp của doanh nghiệp, trên nguyên tắc tận dụng tối đa nguồn vốn bên ngoài hướng đến chất lượng đầu tư và bảo vệ quốc phòng, an ninh quốc gia.
(*) Chủ tịch Ban chấp hành lâm thời Liên chi hội tài chính Khu công nghiệp Việt Nam, Nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chú thích:
( 1 ) (2) (3) Qui định mới trong những lần sửa đổi bổ sung Luật
TS. Phan Hữu Thắng (*)