Thị trường ngày 18/10/2024: Giá vàng vượt đỉnh, dầu thế giới phục hồi, đồng và nông sản đi lùi

19/10/2024 - 00:31
(Bankviet.com) Phiên giao dịch ngày 18/10 chứng kiến những biến động mạnh trên thị trường hàng hóa. Trong khi giá vàng lập đỉnh mới do nhà đầu tư tìm kiếm tài sản trú ẩn an toàn, dầu thô phục hồi nhờ dự trữ của Mỹ giảm. Ngược lại, cà phê, quặng sắt và đồng lại chịu sức ép lớn khi nhu cầu suy yếu và nguồn cung tăng cao.

Thị trường ngày 17/10: Giá vàng tiếp tục lên dốc, mặt hàng nông sản tăng giảm đan xen

Giá cà phê Robusta sụt giảm do nguồn cung tăng

Giá dầu tăng nhờ dự trữ dầu thô của Mỹ giảm mạnh

Giá dầu thô đã phục hồi sau đợt giảm sâu, khi lượng dự trữ dầu thô của Mỹ bất ngờ giảm mạnh. Kết thúc phiên giao dịch ngày 17/10, giá dầu Brent tăng 0,31% lên 74,45 USD/thùng, trong khi dầu WTI tăng 0,28 USD lên mức 70,67 USD/thùng.

Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 2,2 triệu thùng trong tuần trước, trái ngược với dự báo tăng 1,8 triệu thùng. Dự trữ xăng và các sản phẩm chưng cất cũng giảm, cho thấy tín hiệu tích cực về nhu cầu năng lượng.

Thị trường ngày 18/10/2024: Giá vàng vượt đỉnh, dầu thế giới phục hồi, đồng và nông sản đi lùi

Vàng lập đỉnh mới khi nhà đầu tư tìm kiếm tài sản an toàn

Vào lúc 15h30 ngày 18/10, giá vàng miếng SJC tại Tập đoàn DOJI duy trì ổn định ở mức 84 - 86 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra), không thay đổi so với phiên trước. Chênh lệch giá mua - bán tại đây vẫn giữ nguyên ở mức 2 triệu đồng/lượng.

Tại Bảo Tín Minh Châu, giá vàng SJC cũng giữ mức tương tự, với mức giá 84 - 86 triệu đồng/lượng. PNJ cũng niêm yết giá vàng SJC 9999 ở mức 84 - 86 triệu đồng/lượng, duy trì mức giá ổn định so với phiên trước.

Đáng chú ý, giá vàng nhẫn tròn 9999 Hưng Thịnh Vượng đã tăng mạnh, lên mức 85,55 triệu đồng/lượng ở cả hai chiều mua và bán, tăng 800.000 đồng so với phiên trước. Tương tự, Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) cũng điều chỉnh tăng giá vàng nhẫn 9999, với giá mua vào là 83,85 triệu đồng/lượng và bán ra 84,95 triệu đồng/lượng, tăng lần lượt 750.000 đồng và 650.000 đồng. Tại Bảo Tín Minh Châu, giá vàng nhẫn cũng tăng đáng kể, lên 85,52 triệu đồng/lượng (bán ra), tăng 780.000 đồng.

Trên thị trường quốc tế, vào lúc 16h27 ngày 18/10 (giờ Việt Nam), giá vàng thế giới tăng 0,65%, tương đương 17,59 USD/ounce, đạt mức 2.711,44 USD/ounce.

Giá đồng và quặng sắt "lao dốc"

Trái ngược với đà tăng của vàng, giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 3 tuần, chốt ở mức 9.498 USD/tấn. Sự bi quan về nền kinh tế Trung Quốc - nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới - vẫn là yếu tố chính gây áp lực lên giá. Các nhà đầu tư đang dần chuyển hướng sang các tài sản an toàn như vàng, khiến giá đồng tiếp tục lao dốc.

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) giảm mạnh 5,99%, xuống mức 746 CNY (104,74 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 30/9. Nguyên nhân chính là do sự thiếu hụt các biện pháp kích thích kinh tế từ Trung Quốc và nguồn cung tăng mạnh từ các công ty khai thác lớn như Vale và Rio Tinto.

Tại Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 11 cũng giảm 5%, xuống còn 99,5 USD/tấn. Điều này phản ánh sự sụt giảm nhu cầu tiêu thụ thép tại Trung Quốc khi nước này đang cố gắng khôi phục thị trường bất động sản nhưng chưa có giải pháp cụ thể.

Giá cà phê và đường trái chiều

Cà phê giảm sâu: Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 11 trên sàn London giảm 3,6%, xuống mức 4.685 USD/tấn, mức thấp nhất trong một tháng qua. Hoạt động giao dịch cà phê tại Việt Nam - nhà sản xuất Robusta lớn nhất thế giới - vẫn còn trầm lắng do nông dân chuẩn bị bước vào vụ thu hoạch mới. Giá cà phê trong nước tại Tây Nguyên hiện đang dao động từ 113.300 – 113.800 đồng/kg.

Trong khi đó, cà phê Arabica trên sàn New York giảm 1,1%, xuống mức 2,5515 USD/lb do lo ngại về tăng trưởng nhu cầu trên toàn cầu.

Giá đường tăng nhẹ: Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 tăng 0,7%, đạt mức 22,16 US cent/lb. Ngược lại, đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 0,4% lên 565,7 USD/tấn, nhờ vào sản lượng tốt ở Bắc bán cầu và lượng mưa tích cực tại Brazil.

Giá gạo Ấn Độ giữ mức thấp nhất trong một năm

Giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ tiếp tục duy trì ở mức thấp nhất trong hơn một năm, khi gạo đồ 5% tấm được chào bán ở mức 490-495 USD/tấn. Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm tăng nhẹ lên 525 USD/tấn nhờ nhu cầu ổn định từ các thị trường như Indonesia và Philippines. Tại Việt Nam, giá gạo 5% tấm giảm nhẹ xuống 537 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2023.

Tại Đồng bằng sông Cửu Long, giá gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu hôm nay tiếp tục giảm nhẹ 100 - 200 đồng/kg, xuống mức 10.300 - 10.600 đồng/kg. Giá gạo thành phẩm IR 504 ổn định, duy trì ở mức 12.500 - 12.700 đồng/kg.

Về phụ phẩm, giá cám khô tiếp tục giữ mức 5.900 - 6.000 đồng/kg, trong khi tấm thơm dao động từ 9.500 - 9.600 đồng/kg. Tại An Giang, giá lúa hôm nay tiếp tục ổn định. Cụ thể, lúa Đài thơm 8 và lúa Nhật được niêm yết ở mức cao nhất là 7.800 - 8.000 đồng/kg. Lúa OM 18 dao động từ 7.500 - 7.800 đồng/kg, trong khi OM 5451 và OM 380 ở mức 7.200 - 7.300 đồng/kg.

Giá nếp IR 4625 khô dao động từ 9.600 - 9.800 đồng/kg, còn nếp Long An 3 tháng khô đạt mức 9.800 - 10.000 đồng/kg. Tại chợ An Giang, giá gạo thường được ghi nhận trong khoảng 15.000 - 17.000 đồng/kg, trong khi gạo thơm vẫn giữ mức 17.000 - 23.000 đồng/kg.

Linh Linh

Linh Linh

Theo: Kinh Tế Chứng Khoán