ESG là từ thuật ngữ viết tắt của Environmental, Social và Governance (môi trường, xã hội và quản trị), là một hệ thống giúp đo lường những yếu tố liên quan đến hoạt động phát triển bền vững của một tổ chức và giúp xây dựng nền tài chính bền vững. Thực thi ESG trong hoạt động ngân hàng hiện đang là một trong những xu hướng trên thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Để có thêm những cơ sở lí luận và thực tiễn trong việc đề xuất các giải pháp thực thi ESG trong ngành Ngân hàng, ngày 21/12/2023, tại Hà Nội, được sự đồng ý của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Tạp chí Ngân hàng tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Thực thi ESG trong ngành Ngân hàng: Cơ hội, thách thức và giải pháp”.
Hội thảo do Tiến sĩ Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực NHNN chủ trì. Tham dự Hội thảo có ông Tạ Quang Đôn - Vụ trưởng Vụ Pháp chế; bà Phạm Thị Thanh Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế; Tiến sĩ Phạm Minh Tú - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng cùng đại diện lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN. Về phía các bộ, ngành, các tổ chức tín dụng (TCTD) có Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường; ông Trần Phương - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần (NHTMCP) Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); ông Nguyễn Việt Cường - Phó Tổng Giám đốc NHTMCP Ngoại thương Việt Nam; ông Huỳnh Văn Thuận - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam; ông Phạm Đỗ Nhật Vinh - Phó Tổng Giám đốc Công ty KPMG Việt Nam; bà Michele Wee - Tổng Giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam; ông Kojima Masao - Tổng Phụ trách MUFG Bank Việt Nam, Tổng Giám đốc MUFG Bank Chi nhánh Thành phố Hà Nội. Về phía Tạp chí Ngân hàng có bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập phụ trách; ông Nguyễn Thanh Nghị - Phó Tổng Biên tập. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của gần 200 đại biểu là các chuyên gia kinh tế, tài chính - ngân hàng, các nhà quản lí đến từ các bộ, ngành, trường đại học, viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, các TCTD trong và ngoài nước cùng phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài ngành Ngân hàng đã tới dự và đưa tin Hội thảo.
Tiến sĩ Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực NHNN phát biểu khai mạc Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Tiến sĩ Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực NHNN nhấn mạnh: Phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội hiện nay đang trở thành xu hướng trên thế giới, giúp định hướng tầm nhìn và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ chỉ số ESG là một trong những thước đo về sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Những lợi ích của việc thực hiện tốt ESG bao gồm giảm thiểu chi phí và rủi ro trong dài hạn thông qua triển khai các công nghệ mới và nâng cao hiệu quả vận hành, phát triển sản phẩm mới, mở rộng thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu mới của khách hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động và danh tiếng doanh nghiệp…; do đó, ESG đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững. Tiếp cận thực thi ESG là một vấn đề mới có tính thời sự, vừa là cơ hội, vừa là thách thức, vừa phải thận trọng nhưng cũng phải khẩn trương, cấp bách để góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Chính phủ tại Hội nghị COP26 về môi trường và khí hậu trong những năm qua.
Việt Nam là một trong những quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu với thiệt hại ước tính là 523 tỉ USD, tương đương với 14,5% GDP vào năm 2050. Việc doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng tìm cách xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn ESG sẽ có được những lợi ích và cơ hội thị trường lớn vì giai đoạn từ nay đến năm 2030, Việt Nam có thể thu hút nguồn vốn trị giá 753 tỉ USD đầu tư vào vấn đề môi trường và khí hậu. Việc triển khai ESG là xu hướng tất yếu trên thị trường quốc tế để đảm bảo hiệu quả an toàn và lành mạnh cho các TCTD trước những rủi ro liên quan đến môi trường, biến đổi khí hậu; gia tăng sự đóng góp của các tổ chức tín dụng đối với chiến lược tăng trưởng xanh của mỗi quốc gia.
Ngành Ngân hàng Việt Nam có vai trò quan trọng dẫn dắt nền kinh tế khi cung cấp, điều phối nguồn vốn dựa trên quy trình thẩm định rủi ro tín dụng. Chính vì vậy, ngân hàng đóng vai trò tiên phong trong việc thực thi ESG tạo ra sự thúc đẩy lớn đối với các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng trong việc thiết lập những chuẩn mực mới về phát triển bền vững. Việc Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022 đã thể hiện cam kết của Việt Nam đối với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Luật Bảo vệ môi trường đặt ra khuôn khổ để NHNN triển khai các chính sách liên quan nhằm bảo vệ môi trường thông qua dòng vốn đầu tư.
Năm 2018, NHNN đã ban hành Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội cho 10 ngành kinh tế trong hoạt động cấp tín dụng. Đây được xem là bước đi đầu tiên trong tiến trình tích hợp các tiêu chí ESG vào hoạt động của ngành Ngân hàng. Ngày 23/12/2022, Thống đốc NHNN cũng đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quản lí rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; cho thấy nỗ lực đáng kể của NHNN trong quá trình hội nhập vào xu thế chuyển đổi ESG của các ngân hàng trung ương trong khu vực.
Phát triển bền vững thông qua ESG là cơ hội để xây dựng lợi thế cạnh tranh mới cho các ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, việc áp dụng ESG vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong nước mới chỉ đang ở giai đoạn đầu, với một số cải cách trong quy trình cấp tín dụng, do vậy, sẽ còn rất nhiều khó khăn, thách thức mà ngành Ngân hàng phải giải quyết trong quá trình áp dụng ESG vào hoạt động kinh doanh như công tác triển khai, thẩm định những tác động môi trường, các rủi ro liên quan đến danh mục đầu tư, quản trị, đánh giá rủi ro ESG, đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và có kinh nghiệm trong các hoạt động ESG…
Tiến sĩ Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực NHNN khẳng định, đây là vấn đề khá mới và phức tạp nhưng không thể trì hoãn thêm, Chính phủ, các cơ quan Chính phủ cần ban hành hành lang pháp lí về vấn đề này để các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế vận hành. Thông qua Hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực NHNN đề nghị các diễn giả, các chuyên gia, các nhà khoa học tập trung thảo luận rõ các nội dung sau: (i) Làm rõ khái niệm, nội hàm của ESG và những vấn đề liên quan trực tiếp đến hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng; (ii) Thực tiễn triển khai ESG tại các tổ chức tín dụng tại Việt Nam - Những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc; (iii) Hoàn thiện khung khổ pháp lí, quy định, chính sách liên quan đến triển khai bộ tiêu chuẩn ESG tại Việt Nam; (iv) Phân tích mô hình, tác động việc thực thi ESG của các nước trên thế giới đến hoạt động của hệ thống ngân hàng, từ đó đưa những tham mưu chính sách đối với NHNN và khuyến nghị đối với Chính phủ; các bộ, ngành liên quan; các giải pháp để thực thi có hiệu quả ESG trong các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Triển khai ESG là yêu cầu bắt buộc
Tiến sĩ Phạm Minh Tú - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, NHNN trình bày tham luận tại Hội thảo
Tại Hội thảo, Tiến sĩ Phạm Minh Tú - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, NHNN trình bày tham luận: “ESG và việc triển khai tại các ngân hàng ở Việt Nam” đã đưa ra 04 nội dung: (1) Làm rõ khái niệm về ESG và ESG trong các TCTD; (2) Kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc triển khai ESG; (3) Làm rõ thêm bức tranh toàn cảnh của các NHTM Việt Nam trong triển khai ESG; (4) Một số định hướng, đề xuất triển khai đồng bộ ESG trong hệ thống ngân hàng.
Theo Tiến sĩ Phạm Minh Tú, ngân hàng với đặc thù là trung gian tài chính, huy động các nguồn lực nhàn rỗi và cho vay nền kinh tế. Ngân hàng huy động các nguồn lực xanh và định hướng các dòng vốn chảy vào các lĩnh vực kinh tế xanh và bền vững; ngân hàng cũng là trung gian thanh toán, cung cấp các sản phẩm thanh toán để giảm thiểu việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng xanh.
Có 04 lí do các ngân hàng phải triển khai ESG: Những quy định pháp lí, hiệp ước mà chúng ta cam kết với quốc tế và trong nước; những cơ hội kinh doanh; danh tiếng cho ngân hàng; quản trị, lường trước các rủi ro và quản trị được các rủi ro.
Trên thế giới, đối với Liên minh châu Âu (EU), việc triển khai ESG là yêu cầu bắt buộc. Bên cạnh các quy định pháp lí đầy đủ mang tính bắt buộc, còn có quy trình tích hợp ESG bài bản: Thiết lập mục tiêu ESG; xây dựng bộ máy; xây dựng khuôn khổ bền vững và tích hợp ESG; công bố thông tin ESG. Tại Singapore, Hiệp hội Ngân hàng Singapore có hướng dẫn cho các ngân hàng trong việc triển khai ESG khá bài bản; còn Cơ quan Quản lí tiền tệ của Singapore lại có hướng dẫn về quản lí rủi ro cho các ngân hàng. Trung Quốc đã đưa ra các quy định lồng ghép ESG vào trong xếp hạng tín dụng, xếp hạng tín nhiệm và yêu cầu các ngân hàng Trung Quốc phải tích hợp ESG vào các quy định quy trình quản lí rủi ro hệ thống.
Về bức tranh triển khai ESG trong ngành Ngân hàng Việt Nam, theo Tiến sĩ Phạm Minh Tú, từ năm 2015 đến nay, Chính phủ và NHNN đã ban hành các văn bản chỉ đạo như: Chỉ thị số 03/CT-NHNN (năm 2015) về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lí rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Quyết định số 1552/QĐ-NHNN (năm 2015) ban hành kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020; Quyết định số 986/QĐ-TTg (năm 2018) của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030, gắn với phát triển tín dụng xanh; Quyết định số 1604/QĐ-NHNN (năm 2018) phê duyệt Đề án Phát triển Ngân hàng xanh tại Việt Nam; Thông tư số 17/2022/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quản lí rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.
Theo thống kê về xây dựng hệ thống quản lí rủi ro môi trường tại NHTM: 47,37% NHTM đã xây dựng quy định nội bộ về quản lí rủi ro môi trường và xã hội. Đến cuối năm 2022, có 90,12% các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá rủi ro môi trường với một phần hoặc toàn bộ khoản vay; dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường đạt 2,36 triệu tỉ đồng, gấp hơn 10 lần so với năm 2017.
Tiến sĩ Phạm Minh Tú đưa ra một số thách thức đối với việc triển khai ESG tại các NHTM Việt Nam hiện nay, đó là khung pháp lí chưa đầy đủ; nhận thức hạn chế về ESG; chi phí xây dựng bộ máy gia tăng trong giai đoạn đầu; bên cạnh đó, các NHTM chưa có khung chiến lược và lộ trình…
Trên cơ sở đó, Tiến sĩ Phạm Minh Tú đưa ra kiến nghị: Đối với Chính phủ, cần hoàn thiện cơ sở pháp lí; chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp lí trong lĩnh vực tăng trưởng xanh, tín dụng xanh, kinh tế số… Xây dựng khung chính sách và quy định về ESG, hướng dẫn về tiêu chí ESG cho lĩnh vực ngân hàng, xây dựng công cụ đánh giá và xếp hạng ESG; đẩy mạnh công tác truyền thông và phổ cập các kiến thức, kĩ năng về ESG, về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, đạo đức kinh doanh, quản trị…
Đối với các TCTD, cần chủ động áp dụng ESG; cần nhìn nhận đây là cơ hội để đón đầu xu thế quốc tế, tận dụng các cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư ESG; tạo lập bộ phận chuyên trách ESG và xây dựng lộ trình áp dụng ESG.
PGS., TS. Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày tham luận tại Hội thảo
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường với tham luận: “ESG nhằm quản lí rủi ro và bảo toàn giá trị của cổ đông” đã khẳng định: ESG là một vấn đề toàn cầu. Các công ty chịu áp lực buộc phải tăng cường quản lí và công bố ESG từ mọi khu vực trên thế giới.
Hiện nay, một số quy định đang được quan tâm đáng kể trên toàn cầu như Khuôn khổ của Nhóm chuyên trách về Công bố tài chính liên quan đến khí hậu hay Ban Chuẩn mực kế toán bền vững và Bộ quy tắc Quy định công bố tài chính bền vững của EU. ESG được coi là một phần của chiến lược cốt lõi của công ty. ESG trở thành công cụ bắt buộc để các doanh nghiệp tham gia thương mại và đầu tư toàn cầu.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ đưa ra một số thông tin như: Luật Chống phá rừng được Nghị viện Liên minh châu Âu thông qua, nông sản các nước chỉ được bán ở châu Âu khi được sản xuất trên đất không bị phá rừng sau ngày 31/12/2020; EU chính thức áp dụng Cơ chế điều chỉnh Biên giới carbon (CBAM) giai đoạn 1 từ ngày 01/10/2023. Các nhà nhập khẩu đồng thời được yêu cầu thu thập dữ liệu của quý IV/2023 và nộp báo cáo đầu tiên trước ngày 31/01/2024. CBAM có tác động trực tiếp đến 04 ngành công nghiệp chính của Việt Nam là sắt thép, xi măng, phân bón và nhôm; Hoa Kỳ xây dựng Đạo luật cạnh tranh sạch (CCA) được ban hành vào tháng 12/2023, dự kiến áp dụng sau năm 2025; CCA bao gồm 25 lĩnh vực, chẳng hạn như dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, phân bón, sắt thép, giấy thủy tinh và các lĩnh vực khác. Bắt đầu từ năm 2025, việc điều chỉnh sẽ áp dụng cho các ngành sử dụng nhiều năng lượng, bao gồm nhiên liệu hóa thạch, sản phẩm dầu mỏ tinh chế, hóa dầu, phân bón hydro… Vào năm 2027, sẽ được mở rộng để bao gồm hàng hóa thành phẩm nhập khẩu đáp ứng các ngưỡng trọng lượng hoặc giá trị nhất định, chẳng hạn như ô tô. Giá carbon đề xuất là 55 USD/tấn CO2 với mức tăng điều chỉnh mỗi năm.
Thực hành ESG của các doanh nghiệp nói chung, ngân hàng nói riêng tại Việt Nam
Bà Michele Wee - Tổng Giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam trình bày tham luận tại Hội thảo
Với tham luận: “ESG trong ngành Ngân hàng”, bà Michele Wee - Tổng Giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam cho biết, tại Hội nghị COP26 vào tháng 11/2020, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết về việc Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050. Đây là một thách thức rất lớn nhưng đồng thời cũng là cơ hội để Việt Nam thực hiện cải cách mạnh mẽ, tái cơ cấu nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững, tăng dần tỉ trọng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo trong việc phát triển nền kinh tế đồng thời đảm bảo thực hiện tiêu chuẩn ESG. Trong quá trình này, sự đồng hành và chia sẻ của các tổ chức quốc tế, tổ chức tín dụng, ngân hàng nước ngoài có ý nghĩa quan trọng, không chỉ ở góc độ tư vấn chính sách, chia sẻ kinh nghiệm cho các cơ quan quản lí nhà nước mà còn trong việc hỗ trợ nguồn tài chính và nguồn vốn trực tiếp cho các nhà đầu tư dự án xanh cho phát triển bền vững. Thỏa thuận Hợp tác chuyển dịch năng lượng công bằng (Just Energy Transition Partnership - JETP) và bản Kế hoạch huy động nguồn lực được Thủ tướng Phạm Minh Chính công bố tại Hội nghị COP28 dưới sự quản lí của Ban chỉ đạo sẽ đảm bảo việc hiện thực hóa Kế hoạch huy động nguồn lực thành các cơ hội đầu tư và tuân thủ ESG, từ đó thực sự mang lại tác động cho nền kinh tế Việt Nam.
Chia sẻ quan điểm về những việc cần thiết để đạt được các mục tiêu ESG, phát triển xanh và bền vững ở Việt Nam, bà Michele Wee cho rằng, khung pháp lí, các quy định và chính sách liên quan đến tiêu chuẩn ESG ở Việt Nam như một yếu tố thiết yếu thúc đẩy việc áp dụng ESG. Thông qua khung pháp lí, các cơ quan quản lí định hướng mô hình xã hội mà chúng ta muốn, tái cơ cấu nền kinh tế song song với việc đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chọi với các tác động bên ngoài. Theo bà Michele Wee, để đảm bảo thực hiện thành công, các tiêu chuẩn ESG ở Việt Nam nên bao gồm các yếu tố sau: Môi trường chính sách quốc gia; khuôn khổ và phát triển chiến lược; triển khai và quản trị; thách thức và đánh giá.
Đồng thời, bà Michele Wee cho biết, các yếu tố quan trọng mang tính quyết định để thành công gồm: Thứ nhất, nguồn vốn tài chính là yếu tố cốt lõi hỗ trợ thúc đẩy quá trình dịch chuyển. Dự báo nguồn tài chính cần thiết để thực hiện mục tiêu này là khoảng 15 - 16 tỉ USD mỗi năm cho đến năm 2030 và tổng cộng 350 tỉ USD cho đến năm 2050. Đây là một con số rất lớn và sẽ cần sự phối hợp của cả nguồn tài chính công và tư nhân.
Thứ hai, để đạt được tăng trưởng xanh đòi hỏi phải có sự thay đổi đáng kể trong chiến lược đầu tư, điều này có nghĩa là khám phá và tiếp cận các nguồn vốn tài chính mới cho biến đổi khí hậu cũng như lồng ghép các vấn đề môi trường và khí hậu vào các chiến lược tài chính doanh nghiệp. Đối với Việt Nam, tăng trưởng xanh là sứ mệnh quan trọng hướng tới phát triển bền vững và đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường.
Thứ ba, xanh hóa ngành tài chính, thúc đẩy các dự án tăng trưởng xanh trong các lĩnh vực và đảm bảo quy trình minh bạch cho các dự án năng lượng phải là ưu tiên hàng đầu. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần phải thiết kế và thực hiện các chính sách, cải cách và quản trị theo chuẩn quốc tế, minh bạch và chuẩn hóa để thu hút nguồn tài chính công và tư nhân.
Bên cạnh đó, bà Michele Wee còn đề cập tới vai trò của tài chính tư nhân. Để tiếp cận nguồn tài chính từ các tổ chức tín dụng quốc tế cho tài chính xanh, các doanh nghiệp và tổ chức cần tuân theo các tiêu chí đánh giá và phê duyệt nghiêm ngặt và toàn diện - chủ yếu đối với thẩm định Đánh giá rủi ro môi trường và xã hội (ESRA) và sự phù hợp với Khung sản phẩm tài chính xanh và bền vững.
Về phía Ngân hàng Standard Chartered, bà cho biết, đầu tư vào cộng đồng là một phần quan trọng trong chiến lược hoạt động của Ngân hàng tại Việt Nam, mang lại lợi ích cho hàng triệu thanh niên Việt Nam thông qua các dự án của Ngân hàng về giáo dục tài chính, kĩ năng sống, khả năng lãnh đạo và khởi nghiệp.
Theo bà Michele Wee, Chính phủ, các bộ, ngành Việt Nam tiếp tục cùng đồng hành, phối hợp hài hòa xây dựng và hoàn thiện các khung pháp lí cụ thể về tín dụng xanh cũng như các dự án đầu tư kinh doanh có tác động đến môi trường, đặt ra các tiêu chuẩn về tín dụng xanh, xây dựng danh mục các ngành, lĩnh vực xanh. Các NHTM có thể sử dụng các tiêu chuẩn này để áp dụng chung nhằm đánh giá khi cấp tín dụng xanh.
Ông Phạm Đỗ Nhật Vinh - Phó Tổng Giám đốc Công ty KPMG Việt Nam trình bày tham luận tại Hội thảo
Với tham luận: “Giải pháp triển khai ESG tại các NHTM”, ông Phạm Đỗ Nhật Vinh - Phó Tổng Giám đốc Công ty KPMG Việt Nam cho biết, các CEO ngành Ngân hàng trên toàn cầu nhận thấy tầm quan trọng của các sáng kiến ESG đối với tổ chức của họ, đặc biệt khi được hỏi về tác động của ESG đối với việc cải thiện hiệu quả tài chính, thúc đẩy tăng trưởng và đáp ứng kì vọng của các bên liên quan. Theo Báo cáo Triển vọng CEO 2022 của KPMG, trên toàn cầu, rủi ro ESG xếp thứ 4 và rủi ro danh tiếng là mối quan tâm xếp thứ 5 trong số những rủi ro hàng đầu trong tương lai.
Theo ông Vinh, ESG tác động đến mọi khía cạnh trong mô hình hoạt động của ngân hàng gồm: Chính sách; khả năng phục hồi; lợi nhuận bền vững; giá trị doanh nghiệp dài hạn. Tổng quan mức độ trưởng thành trong thực hành ESG của các NHTM Việt Nam, theo ông Vinh, hiện nay, đa phần các NHTM Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và tuân thủ. Trong vòng 2 - 3 năm tới, các NHTM sẽ hoàn thành việc tuân thủ và bước sang giai đoạn vận hành hiệu quả, tiến tới giai đoạn tạo ra giá trị.
Đề cập tới những thách thức chung về ESG cho các ngân hàng tại Việt Nam, ông Vinh cho biết 09 thách thức tiềm tàng sau: (i) Tốc độ thay đổi các quy định pháp lí: Sự gia tăng nhanh chóng của các yêu cầu chính sách về ESG trên nhiều vùng/khu vực pháp lí khác nhau; không có điểm chung giữa các chính sách và quy trình mà các bộ phận, phòng, ban của doanh nghiệp đang tuân thủ; (ii) Tiêu chuẩn quốc tế - Yêu cầu trong nước: Khó khăn trong việc áp dụng các khung báo cáo chung do thiếu sự hài hòa giữa các chính sách; (iii) Cấu trúc chi phí: Việc mở rộng các mô hình kinh doanh hiện tại để đáp ứng các yêu cầu mới về ESG rất tốn kém; (iv) Mô hình hoạt động rời rạc: Thiết kế và phát triển các năng lực ESG chung không được triển khai đồng bộ; Phân bổ vai trò và trách nhiệm chưa rõ ràng; (v) Dữ liệu ESG: Các yêu cầu về dữ liệu không rõ ràng và thiếu các nguồn dữ liệu phù hợp; (vi) Kiến trúc nền tảng: Năng lực công nghệ thông tin của nền tảng cần được thay đổi để phù hợp với các nguồn dữ liệu, các quy trình và kiểm soát mới; (vii) Văn hóa chuyên môn hóa cao của tổ chức: Thiếu sự hợp tác giữa các đội nhóm trong nội bộ doanh nghiệp và văn hóa khởi nghiệp dẫn đến việc phát triển năng lực chồng chéo; Chuyên môn hóa cao trong tổ chức dẫn đến những đứt gãy trong giao tiếp về chiến lược và thời gian; (viii) Nhân sự thiếu kĩ năng: Thiếu nhận thức về phương pháp tích hợp các yếu tố ESG theo vị trí làm việc; thiếu kiến thức chuyên sâu về ESG; thiếu nhận thức về việc tích hợp các yêu cầu ESG trong kĩ năng và vị trí làm việc; (ix) Trải nghiệm khách hàng: Yêu cầu cao với các mục tiêu nhiệm vụ không rõ ràng về thông tin cần được thu thập.
Tại Hội thảo, ông Vinh chỉ ra 05 lĩnh vực trọng tâm chuyển đổi ESG cần thiết đối với các ngân hàng, đi kèm đó là các thông điệp chính: Thứ nhất, về kế hoạch chuyển đổi Net Zero, tuyên bố kế hoạch chỉ là một phần của hành trình. Việc đạt được mục tiêu phụ thuộc vào việc vận hành tổ chức của ngân hàng; thứ hai, về thị trường carbon, việc chuẩn bị cho tổ chức của ngân hàng, đặc biệt là bộ phận tài chính, để thích ứng với các thông lệ kế toán lượng carbon là rất quan trọng nhằm đáp ứng các mục tiêu phát thải; thứ ba, về thiên nhiên và đa dạng sinh học, các nhà lãnh đạo thị trường đã bắt đầu xác định phạm vi rủi ro liên quan đến mất mát thiên nhiên và đa dạng sinh học trong danh mục đầu tư toàn cầu của họ; thứ tư, về các vấn đề xã hội, để ngăn chặn việc bị đưa vào danh sách đen xã hội, các doanh nghiệp cần có kế hoạch quản lí khủng hoảng mạnh mẽ hơn và chiến lược thu hút tham gia của các bên liên quan; thứ năm, về sản phẩm và dịch vụ bền vững, thiết lập cấu trúc các bộ phận chức năng hỗ trợ của Ngân hàng để hỗ trợ và cung cấp các sản phẩm tài chính bền vững sẽ quyết định thành công.
Ông Phạm Đỗ Nhật Vinh khuyến nghị các bước mà theo ông, là chìa khóa để vận hành thành công các mục tiêu ESG trong cơ cấu tổ chức hiện tại của ngân hàng gồm: Đánh giá Mức độ trưởng thành về ESG; chiến lược; mục tiêu mô hình hoạt động; Khung đánh giá rủi ro (Risk Assessment Framework - RAF) và Khung đánh giá rủi ro (Risk Management Framework - RMF); khung quản lí môi trường - xã hội; ngân sách và kế hoạch carbon; kiểm tra mức độ chịu đựng khí hậu; khung tài chính xanh và bền vững; đào tạo và phát triển nhân sự ESG; dữ liệu ESG; báo cáo và công bố thông tin.
Khung khổ pháp lí, đào tạo nguồn nhân lực và truyền thông đóng vai trò quan trọng thúc đẩy thực hành ESG tại các NHTM Việt Nam
Trình bày tham luận tại Hội thảo với chủ đề “Thực hành ESG tại BIDV: Thuận lợi, khó khăn và một số đề xuất, khuyến nghị”, ông Trần Phương - Phó Tổng Giám đốc BIDV cho biết, bối cảnh thuận lợi của môi trường trong nước, quốc tế là yếu tố vô cùng quan trọng, cụ thể là: (i) Có sự định hướng, chỉ đạo quyết liệt từ Chính phủ, NHNN và các bộ, ngành liên quan; (ii) Sự ủng hộ, hỗ trợ trên nhiều phương diện của các đối tác, các tổ chức tài chính có năng lực và kinh nghiệm trên thế giới; (iii) Khung pháp lí trong nước đang dần hình thành và hoàn thiện, tạo ra cơ chế luật hóa cho hoạt động xanh, bền vững; (iv) Nhận thức của khách hàng, cộng đồng về vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển xanh, bền vững và thực hành ESG đang dần tăng lên.
Ông Trần Phương - Phó Tổng Giám đốc BIDV trình bày tham luận tại Hội thảo
Bên cạnh thuận lợi, theo ông Trần Phương, tại Việt Nam, đây còn là lĩnh vực khá mới và đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho cả cơ quan quản lí cũng như doanh nghiệp, các ngân hàng, trong đó có BIDV, cụ thể là: Thứ nhất, về khung pháp lí, đến nay quy định về phân loại xanh và xác nhận dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh vẫn chưa được ban hành. Do vậy, chưa có căn cứ cho việc ban hành các văn bản hướng dẫn tương ứng của NHNN, ảnh hưởng đến việc triển khai tại các NHTM; thứ hai, việc xác định và thu thập dữ liệu về phát thải tiếp tục là vấn đề khó khăn tại nhiều nước trên thế giới và cả Việt Nam. Điều này dẫn đến những vướng mắc trong công tác thẩm định, đánh giá, giám sát tín dụng cũng như việc đo lường, định lượng phát thải tổng thể của ngân hàng (phạm vi 1, 2 và 3); thứ ba, lực lượng nhân sự ngân hàng có kiến thức kĩ thuật chuyên sâu về các yếu tố môi trường, xã hội và bền vững để đánh giá, thẩm định dự án/khoản vay còn tương đối hạn chế; thứ tư, hiện nay, các doanh nghiệp tại Việt Nam mới tiếp cận ban đầu với định hướng phát triển bền vững và thực hành ESG, đặc biệt là việc quản lí các rủi ro về môi trường. Do đó, sẽ cần nhiều thời gian và nguồn lực để đào tạo, hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, đầu ngành thực hiện chuyển dịch hoạt động từ kinh doanh thương mại thông thường sang phát triển bền vững; thứ năm, các chính sách hỗ trợ về tài chính cho các hoạt động ngân hàng xanh, phát triển bền vững cần tiếp tục được xây dựng và ban hành với mức khuyến khích đủ lớn.
Để tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nói chung và TCTD nói riêng trong việc tiếp cận và chuyển dịch hoạt động, đóng góp vai trò quan trọng trong mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của quốc gia, ông Trần Phương đề xuất, kiến nghị với các cấp thẩm quyền một số nội dung như sau:
Một là, hoàn thiện các khung khổ chính sách, hướng dẫn cho hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng xanh, bền vững. Trước mắt, cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh (taxonomy). Bên cạnh đó, là định hướng phát triển cụ thể cho từng ngành/nhóm ngành (ưu tiên, nhạy cảm với môi trường và xã hội) đồng thời xem xét, nghiên cứu quy định về phân loại các dự án, khoản vay có tính chất xã hội, bền vững (liên kết giữa môi trường và xã hội) làm cơ sở thống nhất triển khai thực hiện trong hệ thống.
Hai là, xem xét ban hành các chính sách ưu đãi đủ lớn để khuyến khích nhà đầu tư tài trợ vốn cho các dự án xanh, bền vững và khuyến khích các TCTD đẩy mạnh thực hành ESG (như điểm cộng cho các TCTD nổi bật về hoạt động này khi tính toán xếp hạng hằng năm, ưu tiên trong cấp phép mở chi nhánh mới...).
Ba là, đẩy mạnh việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực về môi trường - xã hội để đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường trong quá trình chuyển dịch. Cùng với đó là thúc đẩy công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện chuyển dịch hoạt động sang phát triển bền vững.
Hữu Mạnh - Trần Hiền (Ảnh Trang -Thuận)