Phóng viên: Mới đây, Bộ Tài chính đã cập nhật 3 kịch bản lạm phát bình quân năm 2024 tăng trong khoảng 3,72-4,5%. Ông nhìn nhận thế nào về 3 kịch bản này, thưa ông?
TS. Lê Duy Bình: Tại cuộc họp của Ban Chỉ đạo, đánh giá kết quả công tác quản lý, điều hành 6 tháng đầu năm, định hướng công tác điều hành giá những tháng còn lại của năm 2024, Bộ Tài chính đã cập nhật 3 kịch bản lạm phát bình quân năm 2024 gồm: Kịch bản 1, dự báo CPI bình quân năm 2024 tăng khoảng 3,72% so với năm 2023; Kịch bản 2, dự báo CPI bình quân tăng khoảng 4,03% so với 2023; Kịch bản 3, dự báo CPI bình quân năm 2024 tăng khoảng 4,5% so với năm 2023.
3 kịch bản này bám rất sát với tình hình thực tiễn đang diễn ra hiện nay, sau những chỉ số ban đầu của Tổng cục Thống kê công bố về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số lạm phát cơ bản. Các kịch bản này cũng dựa trên những dự báo có thể diễn biến của một số yếu tố bên ngoài như giá cả; tình hình lạm phát của các nước; sự biến động của giá nguyên, nhiên vật liệu trên toàn cầu ảnh hưởng đến Việt Nam, tình hình lãi suất của một số nước khác.
Các kịch bản này cũng dựa vào một số yếu tố khác trong nước như giá, mức phí của một số dịch vụ cơ bản đã được điều chỉnh tăng trong thời gian vừa qua, chính sách tiền lương mới dự kiến sẽ được áp dụng từ ngày 1/7 sắp tới.
Đáng chú ý, trong 3 kịch bản này có một kịch bản bám sát nhất với mục tiêu cao nhất của Quốc hội đặt ra là 4,5%. Điều này cũng đặt ra vấn đề rất lớn trong công tác chỉ đạo điều hành đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tài chính và các bộ, ngành khác có sự phối hợp để đảm bảo chỉ số lạm phát nằm trong tầm kiểm soát, trong mục tiêu Quốc hội đề ra.
Phóng viên: Ở góc nhìn của chuyên gia kinh tế, theo ông kịch bản nào dễ xảy ra nhất?
TS. Lê Duy Bình: Tính đến cuối tháng 5/2024, chỉ số CPI tăng khá mạnh. 5 tháng đầu năm CPI tăng 4,03%. Đây là con số khá cao. Trong khi cuối tháng 5 lạm phát lõi là 2,7%. Trong 6 tháng tới việc phải duy trì lạm phát lõi ở mức 3,5-3,75% là thách thức rất lớn, trong khi có rất nhiều áp lực ảnh hưởng đến lạm phát trong năm nay như: giá mặt hàng trong nước vẫn tăng, đặc biệt là những dịch vụ cơ bản; giá nguyên, nhiên vật liệu mà Việt Nam đang nhập khẩu chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Dù lạm phát đã giảm bớt ở một số quốc gia khác nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao. Giá nguyên, nhiên vật liệu nhập vào Việt Nam như vật liệu xây dựng, thép, giá nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất đầu vào trong nước giá thành vẫn chưa hạ nhiệt. Bên cạnh đó, giá dầu thế giới cũng chưa có dấu hiệu giảm, tác động lớn đến giá xăng dầu trong nước.
Cuối cùng, là chính sách lương mới được thực hiện từ ngày 1/7 cũng sẽ tạo áp lực lên CPI, áp lực về kỳ vọng lạm phát, từ đó tác động lên lạm phát.
Do vậy, tôi cho rằng, áp lực lạm phát trong năm nay là khá lớn và kịch bản 3, dự báo CPI bình quân năm 2024 tiệm cận mức 4,5% so với năm 2023 nhiều khả năng sẽ xảy ra.
Phóng viên: Tính từ đầu tháng 6, đã có khoảng 20 ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất huy động cho thấy xu hướng này đang lan rộng trong hệ thống ngân hàng thương mại. Việc tăng lãi suất huy động sẽ có những tác động như thế nào trong bối cảnh các kênh đầu tư khác hoặc trầm lắng, hoặc rủi ro cao, thưa ông?
TS. Lê Duy Bình: Việc tăng lãi suất huy động sẽ có nhiều tác động. Trong đó, tác động thứ nhất là có thể rút bớt tiền mặt từ trong lưu thông, đảm bảo được huy động thu hút vốn từ các tổ chức kinh tế, dân cư, từ nền kinh tế vào hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, khi lãi suất huy động tiền gửi tăng, tiền sẽ quay trở lại hệ thống ngân hàng, từ đó cũng sẽ tác động trực tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng hoặc lạm phát.
Thứ ba, lãi suất tăng sẽ tạo ra sức hấp dẫn mới cho kênh đầu tư về tiết kiệm so với những kênh khác.
Vừa qua, thị trường chứng khoán đã có sự hứng khởi nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Một số thị trường khác như vàng, bất động sản đặc biệt là nhà chung cư thì có biến động rất lớn, không phù hợp với đại đa số người dân.
Do vậy, việc lãi suất huy động tăng sẽ tăng sức hấp dẫn của khoản đầu tư mới với người dân, tạo ra kênh đầu tư mới, thu hút đầu tư tiết kiệm của người dân quay trở lại với ngân hàng, đặc biệt là những người có thu nhập ổn định, có nhu cầu gửi tiết kiệm, khoản đầu tư món nhỏ, có khẩu vị rủi ro ở mức độ thấp sẽ được hưởng lợi từ việc tăng lãi suất huy động này.
Tuy nhiên, lãi suất huy động tăng cũng đồng nghĩa với việc tạo nên áp lực với lãi suất cho vay ở đầu ra. Trong bối cảnh phần lớn các ngân hàng đang nỗ lực để đảm bảo cầu tín dụng vẫn chưa phục hồi được như trước đây, 5 tháng đầu năm cầu tín dụng gia tăng ở mức độ vừa phải. Các tổ chức tín dụng chịu áp lực phải duy trì mức lãi suất cho vay ở mức độ thấp hoặc như hiện nay trong bối cảnh lãi suất huy động tăng thì ngân hàng sẽ phải hi sinh phần lợi nhuận, hi sinh phần thu nhập lãi thuần (NIM), lợi nhuận biên trong một khoảng thời gian để vừa duy trì được nguồn tiền huy động vào hệ thống ngân hàng của mình, vừa đảm bảo được nguồn vốn đầu ra; vừa huy động vốn đầu vào vừa đảm bảo cầu tín dụng đủ mạnh, lãi suất đủ hấp dẫn với doanh nghiệp, người dân.
Phóng viên: Như ông đã nói ở trên, áp lực lạm phát từ nay đến cuối năm là rất lớn. Vậy ông có cho rằng, đó sẽ là áp lực để tác động đến diễn biến tăng lãi suất thời gian tới?
TS. Lê Duy Bình: Lãi suất tăng tiếp hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, trước hết, phụ thuộc vào tình hình lạm phát, CPI tăng đến đâu. Nếu lạm phát tăng quá lớn, có nguy cơ vượt mục tiêu Quốc hội đề ra, thì nhiều khả năng NHNN sẽ tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát.
Tiếp theo là phụ thuộc NHNN. NHNN buộc phải điều hành khéo léo đảm bảo cân bằng giữa giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái, giữa lãi suất và mục tiêu tăng trưởng.
Ngoài ra, việc tăng lãi suất hay không còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như: Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có tiếp tục tăng lãi suất hay không, áp lực với tiền đồng Việt Nam vẫn tiếp tục được duy trì hay không. Nếu FED có động thái giảm lãi suất vào quý III, IV tới đây, thì áp lực với tiền đồng Việt Nam sẽ suy giảm, áp lực với tỷ giá hối đoái sẽ suy giảm, từ đó, áp lực với việc tăng lãi suất từ góc độ để cân bằng với mặt bằng lãi suất trên thế giới, đặc biệt là đồng USD, cũng sẽ suy giảm.
Hay như cung ngoại tệ của các kênh khác như duy trì được nhập siêu ở mức độ cao hoặc nguồn kiều hối vào Việt Nam mạnh, vốn FDI tiếp tục gia tăng thì cung ngoại tệ ở thị trường sẽ gia tăng. Điều này sẽ giúp giảm áp lực với tỷ giá hối đoái và gián tiếp giảm áp lực với việc gia tăng lãi suất do yêu cầu phải duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, không tăng quá mạnh. Thực tế thì tỷ giá tăng quá mạnh sẽ lập tức ảnh hưởng đến những yếu tố khác như giá hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu, cán cân thanh toán, nghĩa vụ trả nợ vay nước ngoài của Chính phủ, doanh nghiệp.
Tôi cho rằng đến thời điểm hiện tại, áp lực tăng lãi suất vẫn chưa đủ lớn nhưng có thể lớn hơn trong những tháng cuối năm tuỳ thuộc vào tình hình diễn biến của chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát trong nước, chính sách lãi suất của các nước khác, hay diễn biến của nguồn cung ngoại tệ. Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp dẫn đến quyết định với việc tăng lãi suất hay không.
Phóng viên: Vậy theo ông, điều hành chính sách tiền tệ từ nay đến cuối năm nên như thế nào cho phù hợp?
TS. Lê Duy Bình: Trong bối cảnh hiện tại, NHNN buộc phải cân đối hài hòa, cân bằng về mục tiêu về lãi suất huy động và mục tiêu lãi suất cho vay, nhằm hỗ trợ cho tăng trưởng cũng như tỷ giá hối đoái. NHNN buộc phải sử dụng những biện pháp như cơ quan này đã sử dụng hiệu quả trước đây một cách linh hoạt, chủ động theo từng thời kỳ, từng thời điểm nhất định, tuỳ diễn biến của thị trường để từ đó có phản ứng về mặt chính sách tiền tệ ở mức độ tương ứng để đảm bảo sự ổn định về chính sách tiền tệ, ổn định về mặt lãi suất và kiềm chế lạm phát, đồng thời hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Minh Đức