Xuất khẩu tuần từ 3-10/3: Thêm 27 mã vùng trồng sầu riêng xuất khẩu; 11 mặt hàng xuất khẩu tỷ USD Xuất khẩu tuần từ 11-17/3: Chè đứng top 5 thế giới, 2 tháng thu về gần 30 triệu USD |
Xuất khẩu rau quả của Việt Nam vượt 1 tỉ USD trong quý đầu tiên 2024
Thông tin từ Hiệp hội Rau quả Việt Nam (VINAFRUIT) cho biết, theo thống kê sơ bộ của ngành hải quan cho thấy trong tháng 3 xuất khẩu rau quả đạt 433 triệu USD, tăng 32,9% so với tháng trước và tăng gần 4% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chung, trong 3 tháng đầu năm, xuất khẩu rau quả đạt 1,25 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm 2023. Đây là lần đầu tiên, xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt và vượt 1 tỷ USD ngay trong quý đầu tiên của năm.
3 tháng đầu năm, xuất khẩu rau quả đạt 1,25 tỷ USD |
Đáng chú ý, trong top 10 thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam (cập nhật đến hết tháng 2), Thái Lan đã vươn lên là thị trường nhập khẩu rau quả lớn thứ 4 của Việt Nam. Rau quả của Việt Nam xuất sang Thái Lan tăng trưởng 125,9% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 28,6 triệu USD, đưa thị phần của Thái Lan tăng từ 2% lên gần 4%.
5 nhóm hàng xuất khẩu tỷ đô của ngành nông nghiệp
Theo số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan (từ đầu năm 2024 đến 15/3),
5 nhóm hàng xuất khẩu tỷ đô của ngành nông nghiệp là: Gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê, thủy sản, rau quả, gạo. |
Trong đó, 3 nhóm hàng mới đạt kim ngạch tỷ đô tính trong 2,5 tháng đầu năm là cà phê, rau quả và gạo. Cụ thể, xuất khẩu cà phê đạt kim ngạch 1,574 tỷ USD, tăng 61,1% so với cùng kỳ năm ngoái (tương đương kim ngạch tăng gần 600 triệu USD).
Gạo đạt 1,06 tỷ USD, tăng 53,7% (tương đương kim ngạch tăng thêm 370 triệu USD). Rau quả đạt 1,03 tỷ USD, tăng 40,3% (tương đương kim ngạch tăng gần 300 triệu USD).
Gỗ và sản phẩm gỗ tiếp tục là nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất của ngành nông nghiệp với kim ngạch đạt 2,86 tỷ USD, tăng xấp xỉ 30% (tương đương kim ngạch tăng thêm gần 660 triệu USD).
Thủy sản đạt 1,546 tỷ USD, tăng gần 10,6% (tương đương kim ngạch tăng thêm gần 150 triệu USD). Như vậy, riêng kim ngạch tăng thêm của 5 nhóm hàng chủ lực này đã lên đến hơn 2 tỷ USD.
Xuất khẩu tôm hùm sang Trung Quốc tăng 27 lần
Theo thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu nhờ mức tăng đột biến 64% trong tháng 1.
Xuất khẩu tôm hùm sang Trung Quốc tăng 27 lần |
Nhiều mặt hàng chính có mức tăng trưởng dương, trong đó tôm chân trắng tăng 18%, cá ngừ tăng 21%, cá tra tăng 6,5%, tôm sú tăng 9%.
Đáng chú ý xuất khẩu tôm hùm đạt gần 30 triệu USD, tăng gấp 18 lần so với mức 1,6 triệu USD cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, XK tôm hùm xanh (tôm hùm đá) chiếm hơn 90% với 27,6 triệu USD, tăng gấp 80 lần; tiếp đến là tôm hùm bông đạt 2,15 triệu USD, tăng gấp 45 lần so với cùng kỳ.
Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất đối với sản phẩm tôm hùm của Việt Nam, với giá trị gần 29 triệu USD, cao gấp 27 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm 2024 đạt gần 1,21 tỷ USD
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng thủy sản tháng 2/2024 giảm 38,7% so với tháng 1/2024 và giảm 24,7% so với tháng 2/2023, đạt gần 459,59 triệu USD. Tính chung 2 tháng đầu năm 2024 xuất khẩu nhóm hàng này đạt gần 1,21 tỷ USD, tăng 13,5% so với 2 tháng đầu năm 2023.
Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm 2024 đạt gần 1,21 tỷ USD |
Thủy sản xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Nhật Bản chiếm 16,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt trên 196,9 triệu USD, tăng 5,6% so với 2 tháng đầu năm 2023; trong đó riêng tháng 2/2024 đạt 66,63 triệu USD, giảm 48,9% so với tháng 1/2024 và giảm 30,2% so với tháng 2/2023.
Đứng thứ 2 về kim ngạch là thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng 15,6%, đạt gần 188,59 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ; riêng tháng 2/2024 xuất khẩu sang thị trường này đạt 77,79 triệu USD, giảm 29,9% so với tháng 1/2024 và giảm 10,6% so với tháng 2/2023.
Tiếp đến thị trường Trung Quốc trong tháng 2/2024 giảm 19,4% so với tháng 1/2024 và giảm 20,3% so với tháng 2/2023, đạt 81,3 triệu USD; cộng chung cả 2 tháng đầu năm 2024 xuất khẩu sang thị trường này tăng mạnh 43,7% so với 2 tháng đầu năm 2023, đạt trên 181,73 triệu USD, chiếm 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
2 tháng đầu năm xuất khẩu phân bón của Việt Nam mang về hơn 145 triệu USD
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2024 cả nước xuất khẩu 351.962 tấn phân bón các loại, tương đương 145,42 triệu USD, giá trung bình 413,2 USD/tấn, tăng 26,5% về khối lượng, tăng 12,8% về kim ngạch nhưng giảm 10,9% về giá so với 2 tháng đầu năm 2023.
2 tháng đầu năm xuất khẩu phân bón của Việt Nam mang về hơn 145 triệu USD |
Riêng tháng 2/2024 xuất khẩu 171.741 tấn phân bón các loại, đạt 72,52 triệu USD, giá 422,3 USD/tấn, giảm 4,7% về khối lượng, giảm 0,5% kim ngạch nhưng tăng 4,4% về giá so với tháng 1/2024; So với tháng 2/2023 thì tăng 13,7% về lượng, tăng 11,5% về kim ngạch nhưng giảm 1,9% về giá.
Xuất khẩu sang thị trường Campuchia chiếm trên 19% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước, đạt 67.530 tấn, tương đương 27,98 triệu USD, giá trung bình 414,3 USD/tấn, tăng 10% về lượng, nhưng giảm 5,4% kim ngạch và giảm 14% về giá so với cùng kỳ năm 2023. Riêng tháng 2/2024 xuất khẩu sang thị trường này giảm 21,3% về khối lượng, giảm 26% về kim ngạch và giảm 6% về giá so với tháng 1/2024, đạt 29.750 tấn, tương đương 11,9 triệu USD.
Đứng sau thị trường chủ đạo Campuchia là các thị trường như: Hàn Quốc đạt 60.720 tấn, tương đương 25,2 triệu USD, giá trung bình 415 USD/tấn, tăng mạnh 51,3% về lượng, tăng 63,6% kim ngạch và tăng 8,1% về giá, chiếm trên 17% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.
Xuất khẩu sang thị trường Philippines đạt 17.894 tấn, tương đương 8,1 triệu USD, giá trung bình 454 USD/tấn, tăng 217% về lượng và tăng 90,9% kim ngạch, giá giảm 39,8%, chiếm trên 5% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch.
Xuất khẩu sang thị trường Malaysia đạt 22.407 tấn, tương đương 7,4 triệu USD, giá trung bình 330,2 USD/tấn, tăng 12,7% về lượng, tăng 19% kim ngạch, giá tăng 5,7%, chiếm 6,4% trong tổng khối lượng và chiếm 5,1% trong tổng kim ngạch.
Ngọc Ngân