73 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam: Trưởng thành và chuyển mình cùng đất nước

06/05/2024 - 18:31
(Bankviet.com) Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Sự kiện trọng đại này đã mở đầu cho một thời kỳ lịch sử vẻ vang của quá trình phát triển nền tiền tệ độc lập và hoạt động ngân hàng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, phản ánh vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế trước những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Sự kiện trọng đại này đã mở đầu cho một thời kỳ lịch sử vẻ vang của quá trình phát triển nền tiền tệ độc lập và hoạt động ngân hàng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, phản ánh vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế trước những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, ngành Ngân hàng Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm, thử thách và có được những bước phát triển đáng ghi nhận, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
 


Trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ảnh Internet) 

Chặng đường lịch sử gian nan

Cho tới cuối những năm 80 của thế kỷ trước, ngành Ngân hàng Việt Nam có nhiệm vụ cơ bản là cấp phát trực tiếp cho ngân sách nhà nước (NSNN) và cấp phát gián tiếp cho khu vực kinh tế quốc doanh qua các ngân hàng chuyên nghiệp hay còn gọi là ngân hàng chuyên doanh. Toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động thông qua một cơ chế hỗn hợp, vừa quản lý, vừa hạch toán kinh tế trong một cấp - một hệ thống thống nhất, dưới sự chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Chính phủ. Về chức năng quản lý, chủ yếu là lập kế hoạch hóa phát hành theo cơ chế bao cấp. Về hạch toán kinh doanh, chủ yếu thực hiện chức năng ngân hàng truyền thống; đồng thời, một phần làm chức năng cấp phát theo chỉ định của Chính phủ.

Mô hình hoạt động này đã dẫn đến hệ quả tất yếu là, một bộ phận tiền phát hành trở thành nguồn chi trực tiếp của NSNN, tức là tài chính hóa tiền phát hành. Trong những năm từ 1976 - 1985, tiền phát hành phải đảm nhiệm bù đắp trên 1/3 tổng số thâm hụt NSNN hằng năm, đây cũng là thời kỳ nền kinh tế bị vật chất hóa, còn NSNN lại được tiền tệ hóa. Cơ chế lưu thông sản phẩm vật chất và dịch vụ của nền kinh tế chủ yếu là thông qua hình thức định lượng hóa bằng tem, phiếu, trong khi một bộ phận không nhỏ nguồn hình thành NSNN lại là tiền phát hành. Một bộ phận tiền phát hành khác trở thành nguồn cấp phát tín dụng cho các nhà máy, công trường, xí nghiệp của khu vực kinh tế nhà nước. Công cụ chủ yếu của các ngân hàng là kế hoạch cung ứng, tín dụng chỉ định và hạn mức tín dụng trực tiếp với các đơn vị kinh tế nhà nước. Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động, lãi suất cho vay thời hạn ngắn cao hơn lãi suất cho vay thời hạn dài một cách phổ biến. Tỉ giá hối đoái được ấn định theo các hiệp định song phương và phân biệt theo khu vực (khu vực I gồm các nước xã hội chủ nghĩa, khu vực II ngoài xã hội chủ nghĩa) và theo đối tượng thanh toán (mậu dịch, phi mậu dịch, kế toán nội bộ…).

Giai đoạn này nền kinh tế có hai thị trường (thị trường nhà nước và thị trường phi nhà nước) với hai hệ thống giá, hai hệ thống phân phối và phân phối lại. Đây cũng là thời kỳ lạm phát phi mã với mức tăng kỷ lục là 774,7% vào năm 1986 do tác động trễ của nhiều yếu tố từ những năm trước dồn lại, dư nợ ngân hàng chủ yếu phục vụ thành phần kinh tế quốc doanh và tăng với tốc độ rất cao, hệ thống ngân hàng đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.

Xuất phát từ thực tiễn trong nền kinh tế, tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi khó khăn. Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức lao động đang bị kìm hãm bởi những sai lầm trong cơ chế cũ. Sau Đại hội VI, ngành Ngân hàng Việt Nam đã từng bước tiếp cận và vận hành theo tinh thần đổi mới phương thức quản lý, xây dựng và hoàn thiện cơ chế mới.

Theo Nghị định số 53-HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN được tổ chức thành hệ thống thống nhất trong cả nước và bao gồm hai cấp là NHNN và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc; theo đó, NHNN không trực tiếp giao dịch với các đơn vị sản xuất - kinh doanh, nhiệm vụ này được chuyển giao sang các ngân hàng chuyên doanh.

Tiếp đó vào ngày 10/3/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 55-CT về lãi suất tiết kiệm với quan điểm cơ bản là lãi suất phải cao hơn mức trượt giá và tăng dần theo kỳ hạn của tiền gửi. Quyết định này đã tạo ra chuyển biến tích cực; nguồn tiền nhàn rỗi đã dồn về các ngân hàng. Đến cuối năm 1989, tiền gửi ngân hàng đạt 1.900 tỉ đồng; chuyển thành nguồn vốn đầu tư phát triển. Nhờ đó, áp lực lạm phát đã giảm nhanh chóng. Cùng với lãi suất tiết kiệm, Hội đồng Bộ trưởng cũng đã ban hành Quyết định số 39-HĐBT ngày 10/4/1989 về chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN; theo đó, lãi suất cho vay cũng phải đảm bảo có lãi thực, tức là bằng lãi suất thực cộng với chỉ số giá cả.

Sau ba năm đổi mới kinh tế, chế độ phân phối theo tem, phiếu đã bị bãi bỏ hoàn toàn từ quý II/1989, mở đầu cho thời đại mới của cơ chế lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Nhờ đó, giá cả trên thị trường tiền tệ cũng từng bước cải thiện theo quan hệ cung - cầu trên thị trường. Tuy nhiên, mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn mang dáng dấp của hệ thống ngân hàng một cấp, vẫn còn sự lẫn lộn giữa hoạt động ngân hàng với hoạt động tài chính, NHNN chỉ là đơn vị thực thi chính sách tiền tệ theo chỉ thị của Chính phủ, chưa theo quy luật kinh tế hàng hóa và lưu thông tiền tệ.

Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua hai pháp lệnh về ngân hàng. Kể từ đó, hệ thống ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và toàn diện, phù hợp với chủ trương của Đảng và Chính phủ về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, số lượng ngân hàng tăng nhanh.

Trưởng thành, chuyển mình cùng đất nước

Tháng 10/1993, Việt Nam đã nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế (Quỹ Tiền tệ quốc tế - IMF, Ngân hàng Thế giới - WB, Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB), tạo cầu nối quan trọng cho các ngân hàng nước ngoài hiện diện với số lượng tăng lên nhanh chóng, qua đó, ngành Ngân hàng Việt Nam có thể học hỏi để phát triển, hòa nhập với quốc tế.  

Về chính sách tiền tệ, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất thực dương, kết hợp sử dụng các công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình thành các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế và trong những năm đầu thập niên 1990 đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm sau đó. Tuy nhiên, những dấu hiệu phát triển nóng cũng bộc lộ những hạn chế, nhất là trên thị trường bất động sản. Hoạt động cho vay bất cẩn ngày càng tăng, nhiều chủ ngân hàng lợi dụng vốn ngân hàng để đầu tư cho công ty “sân sau”, lừa đảo tín dụng gia tăng… dẫn tới đổ vỡ hợp tác xã tín dụng và làm suy yếu nhiều ngân hàng thương mại (NHTM). Nhiều NHTM cổ phần rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, phải sáp nhập vào NHTM nhà nước.

Liên quan đến diễn biến tài chính quốc tế, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Mặc dù cuộc khủng hoảng này chỉ gây tác động gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, nhưng đã thôi thúc ngành Ngân hàng phải đẩy mạnh cải cách; tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất; ban hành các quy định và thiết chế an toàn để tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro của TCTD; áp dụng quy chế trích lập dự phòng rủi ro theo hướng tăng dần; thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại và thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội.

Nhờ những giải pháp nêu trên, VND chỉ giảm giá tổng cộng khoảng 12% trong vòng 8 năm từ 1997 - 2005; lãi suất được thả nổi hoàn toàn từ năm 2002; lạm phát được giữ ở mức một con số từ năm 1996 (4,5%) đến năm 2006 (6,6%); cao nhất là 9,5% vào năm 2004, thấp nhất (0,1-3%) vào năm từ 2000 -2003; tăng trưởng GDP bình quân là 7% (1996 - 2000), 6,9% (2000 - 2005).

Hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài chính. Công nghệ ngân hàng có bước phát triển mạnh mẽ, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành chính thức từ tháng 5/2002. Các mô hình dịch vụ ngân hàng tiên tiến bắt đầu xuất hiện như E-banking, Internet banking. NHNN cũng tích cực tham gia đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đồng thời chủ động triển khai các cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.

Bên cạnh những tác động tích cực, xu hướng mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng Việt Nam với cấp độ ngày càng tăng và trực tiếp hơn, điển hình là tác động bất lợi của tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 - 2009. Trong khi đó, nền kinh tế trong nước còn nhiều yếu kém, mô hình tăng trưởng vẫn lệ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn vay; tín dụng ngân hàng tăng bình quân hằng năm 25 - 30%/năm. Tuy nhiên, môi trường pháp lý chậm thay đổi, kỷ luật ngân sách lỏng lẻo đã xói mòn tính bền vững của nền tảng vĩ mô. Sau khi giảm dần xuống 11,8% vào năm 2010, lạm phát tăng cao trở lại lên 18,13% vào năm 2011; VND chịu sức ép phá giá, dự trữ ngoại hối nhà nước sụt giảm mạnh, mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao (lên đến 20 - 25%/năm); thanh khoản của hệ thống TCTD căng thẳng.

Với mục tiêu xuyên suốt là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, NHNN đã điều hành đồng bộ các giải pháp để duy trì ổn định và giảm dần mặt bằng lãi suất. Từ năm 2016 - 2020, NHNN đã điều chỉnh giảm 2 - 2,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,8 - 1,5%/năm trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 2%/năm trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên; điều tiết và đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các TCTD, duy trì lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý để tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý; chỉ đạo các TCTD cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng. Nhờ đó, mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm dần; trần lãi suất cho vay VND ngắn hạn đối với một số ngành, lĩnh vực giảm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giảm xuống 5%/năm, giảm khoảng 2% so với năm 2016.

Trong những năm gần đây, nhất là sau ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid-19 tới nền kinh tế toàn cầu nói chung và ở Việt Nam nói riêng, rủi ro tăng trưởng thấp đã bao phủ hầu hết các quốc gia và khu vực. Sau khi phục hồi mạnh trong năm 2021, kinh tế toàn cầu bị mất động lượng do phải đối mặt với những thách thức triền miên về lạm phát và năng suất tăng chậm. Kể từ năm 2022, tăng trưởng GDP trung bình của các nước và khu vực trên thế giới chưa bằng phân nửa kết quả tăng trưởng 6,2% trong năm 2021.

Sau khi tăng kỷ lục 9,4% vào giữa năm 2022, lạm phát cơ bản đã hạ nhiệt và đang tiếp tục giảm trên toàn cầu xuống tỉ lệ trung bình 6,8% trong năm 2023; dự báo khoảng 5,9% trong năm 2024 và 4,5% trong năm 2025. Tuy nhiên, mức lạm phát này vẫn cao hơn nhiều so với trước đại dịch Covid-19, thậm chí vẫn cao hơn mục tiêu đề ra tại hầu hết các nước phát triển và khoảng một nửa số quốc gia đang phát triển và mới nổi. Chỉ số giá cả hàng hóa được dự báo sẽ giảm 3% trong năm 2024 và 4% trong năm 2025, nhưng vẫn cao hơn 38% so với mức giá trung bình trong giai đoạn 2015 - 2019.

Cùng với xu hướng giảm lạm phát, kinh tế toàn cầu bắt đầu thoát đáy và đạt mức tăng trưởng 2,3% vào cuối năm 2022. Theo báo cáo tháng 4/2024 của IMF, GDP toàn cầu sẽ tăng 3,2% trong năm 2024 và năm 2025. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng vẫn thấp hơn kết quả tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2015 - 2019. Các yếu tố cản trở quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu bao gồm, hậu quả dài hạn của đại dịch, cuộc chiến tại Ukraine và xung đột quân sự tại Trung Đông. Ngoài ra phải kể đến một số yếu tố mang tính chu kỳ, bao gồm năng suất lao động giảm dần, tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát, chính sách hỗ trợ tài khóa thu hẹp dần trong bối cảnh nợ nần tăng cao, kinh tế toàn cầu ngày càng bị chia cắt, căng thẳng thương mại triền miên, thiên tai dịch bệnh ngày càng khốc liệt.

Trong năm 2023, thương mại toàn cầu ghi nhận mức tăng thấp nhất trong 50 năm qua, trao đổi hàng hóa thu hẹp và hoạt động công nghiệp yếu ớt. Bước sang năm 2024, thương mại toàn cầu được dự báo sẽ cải thiện với mức tăng 2,3%, phản ánh xu hướng phục hồi nhu cầu về hàng hóa và trao đổi thương mại tại hầu hết các nước phát triển.

Đại dịch, chiến tranh, thị trường tài chính bất ổn đã và đang gây nhiều thiệt hại cho người dân, doanh nghiệp và Chính phủ; cản trở tăng trưởng kinh tế và gia tăng bất bình đẳng. Những cú sốc liên tiếp này đã gây tác động kết hợp đến nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam không thể tránh khỏi những khó khăn, thách thức đan xen.

Các đợt bùng phát Covid-19 chủng mới trong năm 2021 đã tác động nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, GDP năm 2021 chỉ tăng 2,58%, thấp nhất trong vòng 30 năm qua. Để kiềm chế đại dịch và hỗ trợ nền kinh tế, từ năm 2021 đến tháng 9/2022, NHNN quyết định giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện để các TCTD giảm lãi suất cho vay, mặc dù mặt bằng lãi suất trên thế giới tăng nhanh và áp lực lạm phát trong nước tăng cao. Tuy nhiên, từ cuối tháng 9/2022, lạm phát tiếp tục tăng cao trên toàn cầu và bốn đợt tăng lãi suất với biên độ rất lớn tại Mỹ trong 7 tháng đầu năm 2022 đã đẩy USD tăng giá mạnh, gây áp lực lên tỉ giá và lạm phát, NHNN phải liên tiếp tiến hành hai đợt điều chỉnh tăng lãi suất điều hành (vào ngày 23/9/2022 và ngày 25/10/2022) với tổng mức tăng cụ thể là: Lãi suất tái cấp vốn tăng từ 4% lên 6%/năm; lãi suất tái chiết khấu tăng từ 2,5% lên 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tăng từ 5% lên 7%/năm; trần lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn dưới 06 tháng tại TCTD tăng 0,8 - 2%/năm (tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 01 tháng tăng từ 0,2% lên 1,0%/năm, kỳ hạn 01 tháng đến dưới 06 tháng tăng từ 4% lên 6%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên tăng từ 4,5% lên 5,5%/năm. Đây là giải pháp tình thế, phù hợp với xu hướng tăng lãi suất trên toàn cầu để kiềm chế lạm phát và căng thẳng thanh khoản trên thị trường trong nước.

Sau hai đợt tăng lãi suất, nhiều NHTM đã tăng lãi suất huy động lên kịch trần 6,0%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 6 tháng. Tương tự, các NHTM lớn cũng đồng loạt điều chỉnh biểu lãi suất huy động với mức tăng 0,8 - 1,4%/năm, gây áp lực tăng lãi suất cho vay. Làn sóng rút tiền ồ ạt tại NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) vào cuối năm 2022 đã tác động lớn tới thanh khoản và tâm lý thị trường, buộc các TCTD phải thận trọng trong việc cân đối nguồn vốn tín dụng; thị trường bất động sản trong nước; trái phiếu doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, gây áp lực tăng nhu cầu về vốn vay từ hệ thống ngân hàng.

Trong bối cảnh như vậy, NHNN đã bám sát diễn biến thực tế trên thị trường, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Ngày 15/3/2023, NHNN quyết định điều chỉnh giảm lãi suất tái chiết khấu từ 4,5% xuống 3,5%/năm, giảm lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng từ 7% xuống 6%/năm và giảm trần lãi suất cho vay đối với các khoản vay ngắn hạn trong một số lĩnh vực từ 5,5% xuống 5%/năm. Tiếp đó, NHNN tiến hành thêm ba đợt giảm lãi suất điều hành (vào các ngày 03/4/2023; 25/5/2023 và 19/6/2023), tổng mức cắt giảm trong 4 đợt giảm lãi suất khoảng 0,5 -2,0%/năm. Đồng thời, NHNN chỉ đạo các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay; triển khai các biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất, nhất là đối với các khoản cho vay đang còn dư nợ hiện hữu và những khoản cho vay mới.

Sau nhiều lần giảm lãi suất huy động, đến cuối tháng 12/2023, mặt bằng lãi suất đã quay đầu giảm, lãi suất huy động đã giảm trên 50% so với đầu năm 2023, trong đó, tiền gửi kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở mức 5,0%, thấp nhất là 4,8% tại Vietcombank. Lãi suất tiền gửi và cho vay VND đối với các giao dịch phát sinh mới tại các NHTM giảm trung bình trên 2,5%/năm so với cuối năm 2022, góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tính đến ngày 31/12/2023, tín dụng tăng 13,71% so với đầu năm 2023, về cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra là 14%, mặc dù thị trường bất động sản trầm lắng.

Bên cạnh tác động của các quyết định giảm lãi suất, kết quả đáng khích lệ này cũng phần nào bắt nguồn từ những nỗ lực chung của toàn ngành Ngân hàng trong năm 2023. Trong đó, NHNN đã kịp thời triển khai các giải pháp ứng phó với những cú sốc khó lường trên thế giới và khó khăn kinh tế - xã hội trong nước; nhanh chóng triển khai Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08/4/2023 của Chính phủ: Hội nghị Chính phủ với địa phương và Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2023 và Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 23/4/2023 của Chính phủ về giải pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay phục vụ nhu cầu đời sống, tiêu dùng; ngày 23/4/2023, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 02/2023/TT-NHNN quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; ngày 23/4/2023, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 03/2023/TT-NHNN quy định ngưng hiệu lực thi hành khoản 11 Điều 4 Thông tư số 16/2021/TT-NHNN ngày 10/11/2021 của Thống đốc NHNN quy định việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.

Tiếp đó, ngày 28/6/2023, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng; ngày 23/8/2023, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 10/2023/TT-NHNN ngưng hiệu lực thi hành một số nội dung của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (đã được bổ sung tại Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 của Thống đốc NHNN). Mục tiêu của hai thông tư này là hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn vay để duy trì sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế.

NHNN cũng yêu cầu các TCTD nghiêm túc, chủ động thực hiện các quy định Basel, triển khai các giải pháp đổi mới công nghệ như chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, thanh toán không dùng tiền mặt, tài chính phi tập trung, các cơ sở dữ liệu Oracle.

Đối với lĩnh vực bất động sản, NHNN đã triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn như chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn vào các dự án đủ điều kiện pháp lý, có khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực của người dân, nhất là các dự án nhà ở xã hội, phù hợp với thu nhập của người dân và các loại hình bất động sản phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh, an sinh xã hội có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ và phát triển.

Về tỉ giá, từ năm 2021 đến nay, thị trường ngoại tệ bất ổn với nhiều biến động trái chiều trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, NHNN đã chủ động tiến hành các biện pháp can thiệp thị trường khi cần thiết, tiếp tục áp dụng cơ chế tỉ giá trung tâm và điều chỉnh thận trọng để tỉ giá biến động linh hoạt hơn, phù hợp với tình hình trong và ngoài nước, góp phần hấp thụ các cú sốc bên ngoài, kết hợp với phát hành tín phiếu VND nhằm giảm bớt dư thừa thanh khoản VND; qua đó, giảm bớt áp lực trong ngắn hạn đối với tỉ giá. Nhờ đó, thị trường ngoại tệ về cơ bản vẫn ổn định, VND chỉ mất giá thấp hơn so với nhiều đồng tiền khác. Sau chuỗi thời gian tăng điểm dài nhất trong gần một thập kỷ, chạm mức 107 vào đầu quý IV/2023, chỉ số DXY (thước đo sức mạnh của USD) tiếp tục tăng cao với tăng hơn 5% trong ba tháng đầu năm 2024, gây áp lực lớn lên đồng nội tệ của nhiều nước, không riêng Việt Nam. Bên cạnh đó, nhu cầu nhập khẩu tăng cao, nhất là xăng, dầu, sắt, thép; nhiều doanh nghiệp tăng cường mua ngoại tệ cũng đã góp phần đẩy tỉ giá tăng mạnh. Tuy nhiên, VND chỉ giảm 4,9%. Trong khi đó, đô la Đài Loan mất giá 5,96%; yên Nhật mất giá 9,69%; won Hàn Quốc mất giá 7,71%... 

Trong những tháng đầu năm 2024, căng thẳng địa chính trị tiếp tục leo thang đã đẩy giá xăng dầu và vận tải tăng cao, buộc nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển phải cân nhắc lùi thời điểm hạ lãi suất. Vì thế, USD tiếp tục tăng giá, NHNN đã sử dụng các công cụ, biện pháp điều hành tỉ giá trung tâm để tỉ giá lên xuống theo tình hình chung, đảm bảo cung cầu và ổn định tỉ giá, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu; công khai bán can thiệp ngoại tệ cho các TCTD có trạng thái ngoại tệ âm để chuyển trạng thái ngoại tệ về 0, với mức bán tỉ giá can thiệp là 25.450 VND/USD. Đây là biện pháp rất mạnh mẽ của NHNN nhằm giải tỏa tâm lý thị trường, đảm bảo nguồn cung ngoại tệ thông suốt, đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế.

Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng GDP và lạm phát do Quốc hội và Chính phủ đề ra, NHNN đã xây dựng chỉ tiêu tín dụng định hướng cho từng năm, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến thực tế. Cụ thể là, NHNN đã điều hành các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, nâng cao chất lượng tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và hỗ trợ phục hồi kinh tế. Bên cạnh các giải pháp điều hành tín dụng, NHNN cũng đã chủ động triển khai nhiều giải pháp cụ thể nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho người dân và doanh nghiệp. Kết quả là, tăng trưởng tín dụng đều đạt mục tiêu đề ra, trong đó, năm 2021 tăng 13,6%; năm 2022 tăng 14,17%; năm 2023 tăng 13,71%. Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vào khu vực sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ.

Các TCTD đã tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia; nghiêm túc thực hiện yêu cầu của NHNN về đánh giá tình hình hoạt động tín dụng và điều chỉnh quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng trưởng, phù hợp với khả năng và cơ cấu nguồn vốn huy động, cho vay đối với nền kinh tế; mở rộng tín dụng có hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật; xử lý kịp thời các vướng mắc về nợ vay và tiếp cận tín dụng của khách hàng; tập trung triển khai có hiệu quả việc thực hiện các cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng đi đôi với mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các nhu cầu vay vốn để sản xuất - kinh doanh, cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực nông thôn và các dự án lớn, trọng điểm của Nhà nước; kiểm soát chặt chẽ rủi ro đối với các khoản cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, bất động sản, cho vay tiêu dùng, cho vay bằng ngoại tệ.

Cho đến nay, các NHTM nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các TCTD; tích cực tham gia hỗ trợ, xử lý các TCTD yếu kém và tập trung nguồn lực để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng vay gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra. Về cơ bản, sự ổn định, an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD tiếp tục được giữ vững. Năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành, các chuẩn mực, thiết chế an toàn của hệ thống TCTD từng bước được củng cố, tiệm cận thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn tại Việt Nam, việc triển khai các quy định Basel II tiếp tục được chú trọng.

Những nỗ lực không mệt mỏi của các TCTD đã góp phần vào việc ổn định kinh tế, tài chính, tiền tệ trong nước, điều kiện tín dụng đã được nới lỏng đáng kể so với đầu năm 2023. Sau quyết định nâng bậc tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên BB+ (ổn định dài hạn), ngày 14/12/2023, Tổ chức Xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings tiếp tục công bố nâng mức tín nhiệm của một loạt ngân hàng và doanh nghiệp lớn tại Việt Nam. Đối với nhóm ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ba ngân hàng bao gồm: HSBC, ANZStandard Chartered đã được nâng hạng tín nhiệm trong lần này. Đối với nhóm các ngân hàng trong nước, những ngân hàng được Fitch Ratings nâng hạng tín nhiệm lần này bao gồm: Vietcombank, NHTM cổ phần Quân đội (MB), NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).

Ngành Ngân hàng cũng đã tích cực tổ chức triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch, chính sách nhằm đẩy mạnh chuyển đổi số. Các hạ tầng dùng chung như hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử, hệ thống thông tin tín dụng (TTTD) quốc gia, thường xuyên được NHNN tổ chức vận hành hệ thống, đầu tư, nâng cấp, bổ sung tiện ích, dịch vụ theo hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, chất lượng dịch vụ, các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt có xu hướng tăng theo tiến bộ công nghệ. Trong năm 2023, số lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng từ 50,3 - 99,1%, giá trị tăng từ 5,4 - 10,8% tùy theo phương thức thanh toán; các hệ thống thanh toán được vận hành ổn định, thông suốt và an toàn.

Hệ thống thanh toán được vận hành ổn định, thông suốt và an toàn, nhiều sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho khách hàng đã được số hóa, trong đó nhiều nghiệp vụ đã số hóa 100%, góp phần mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng, giảm chi phí thanh toán, tăng cường tính minh bạch trong nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và giảm tín dụng đen. 

Cùng với các nỗ lực chuyển đổi số, NHNN đã chỉ đạo Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy quy mô cơ sở dữ liệu TTTD phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu. Theo đó, cơ sở dữ liệu TTTD quốc gia đã tích hợp TTTD từ 100% các TCTD, 1.160 quỹ tín dụng nhân dân và 04 tổ chức tài chính vi mô chính thức, 61 tổ chức tự nguyện ngoài ngành Ngân hàng và các cơ quan quản lý khác. Mức độ bao phủ đạt khoảng 79,7% trên tổng dân số trưởng thành với 55,3 triệu hồ sơ khách hàng, cao hơn là mục tiêu đến năm 2025 đạt 55 triệu hồ sơ khách hàng. Vì thế, năm 2023, được đánh giá là năm thành công trong việc tăng cường chất lượng cơ sở dữ liệu TTTD quốc gia, khi NHNN tập trung kiểm soát chất lượng báo cáo của các TCTD, các tổ chức tự nguyện; phối hợp với Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06) - Bộ Công an làm sạch dữ liệu định danh thông qua việc ứng dụng kết quả của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và tăng cường kết nối, hợp tác với các đơn vị ngoài Ngành để hoàn thiện và chuẩn hóa thông tin lưu trữ tại cơ sở dữ liệu TTTD quốc gia.

Hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng tiếp tục được chú trọng hoàn thiện, vừa bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn vừa bám sát yêu cầu thực tiễn, đáp ứng kịp với xu thế và chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Trong hai năm 2022 và 2023, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng trình Chính phủ, trình Quốc hội thông qua Luật Các TCTD mới thay thế Luật Các TCTD năm 2010. Ngày 18/01/2024, tại kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các TCTD. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Để triển khai thi hành Luật Các TCTD năm 2024 kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, ngày 28/02/2024, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét duyệt, ký ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật; đồng thời, tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động ngân hàng có liên quan để sửa đổi, bổ sung, thay thế, ban hành mới đảm bảo thống nhất, phù hợp với Luật Các TCTD năm 2024.

Về thanh tra, giám sát ngân hàng và cơ cấu lại hệ thống các TCTD, NHNN tiếp tục triển khai quyết liệt các nhiệm vụ được giao tại Đề án 689 - Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”). Từ tháng 6/2021, NHNN đã chính thức vận hành Hệ thống thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát từ xa. Nhờ đó, hoạt động thanh tra, giám sát, cấp phép, cảnh báo sớm, từng bước được chuẩn hóa, góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát các TCTD và mức độ an toàn hệ thống.

Để đảm bảo tính đồng bộ trong triển khai lĩnh vực cải cách hành chính trong toàn ngành Ngân hàng, NHNN đã ban hành các kế hoạch cụ thể về cắt giảm quy định điều kiện kinh doanh; kế hoạch rà soát phân cấp thủ tục hành chính; kế hoạch rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ. Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ theo kế hoạch đề ra, các đơn vị chức năng thuộc NHNN đã tổ chức triển khai và hoàn thành tốt các nhiệm vụ trên cả 6 lĩnh vực thuộc chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. 

Theo kết quả đánh giá của Bộ Nội vụ về chỉ số cải cách hành chính (Par Index) năm 2022, NHNN đứng thứ nhất về chỉ số Par Index và tiếp tục là lần thứ 7 dẫn đầu các bộ, cơ quan ngang bộ về chỉ số này. Năm 2023, NHNN đứng thứ 2 trên tổng số 17 cơ quan được xếp hạng (kém Bộ Tư pháp 0,06 điểm). Trong đó, nhiều chỉ số thành phần NHNN tiếp tục duy trì và đạt thứ hạng cao về mức độ cải cách. Cụ thể, NHNN có 4/7 chỉ số đạt trên 90%, trong đó, chỉ số thành phần “cải cách thủ tục hành chính” giữ vị trí dẫn đầu với giá trị đạt 97%, chỉ số thành phần “công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính” đạt 97,02%. Kết quả xếp hạng cho thấy những nỗ lực, quyết tâm không ngừng của NHNN trong việc chủ động kịp thời ban hành nhiều cơ chế, chính sách đột phá, đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và tạo nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô.

Về công tác truyền thông, NHNN tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp, để đảm bảo thông tin minh bạch, kịp thời, thông điệp rõ ràng, trên cơ sở đó tạo sự tin tưởng, ủng hộ của đông đảo người dân, doanh nghiệp. Thông tin về công tác chỉ đạo, điều hành và cụ thể trong lĩnh vực cải cách hành chính được cung cấp, đăng tải, phát sóng thường xuyên trên: Cổng Thông tin điện tử của NHNN, các báo, tạp chí trong và ngoài Ngành; các kênh truyền hình...
 
Tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của ngành Ngân hàng trong giai đoạn mới
 
Bước sang năm 2024, mặc dù NHNN đã tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp quyết liệt, nhưng tăng trưởng tín dụng thời điểm đầu năm 2024 khá thấp so với những năm gần đây. Do đó, ngày 07/02/2024, NHNN đã ban hành Công văn số 1088/NHNN-CSTT chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh các giải pháp đã được NHNN đề ra tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/01/2024 nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp đó, ngày 20/02/2024, NHNN đã tổ chức Hội nghị trực tuyến về đẩy mạnh tín dụng ngân hàng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2024, qua đó, tín dụng trong tháng 3/2024 đã tăng tích cực trở lại sau khi giảm trong 02 tháng đầu năm do yếu tố mùa vụ. Đến ngày 29/3/2024, tín dụng nền kinh tế tăng 1,34% so với cuối năm 2023.

Theo báo cáo của các NHTM, tính đến ngày 31/3/2024, lãi suất tiền gửi bình quân của các giao dịch phát sinh mới ở mức 3,02%/năm, giảm 0,5% so với cuối năm 2023; lãi suất cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới ở mức 6,5%/năm, giảm 0,6%/năm so với cuối năm 2023. Lãi suất huy động kỳ hạn dưới 01 tháng phổ biến ở mức 1,9 - 2,1%/năm, kỳ hạn 3 tháng ở mức 2,3 - 2,5%/năm, kỳ hạn 6 tháng ở mức 2,6 - 2,8%/năm, kỳ hạn 12 tháng ở mức 2,9 - 3,1%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay cũng đang giảm dần, lãi suất vay ngân hàng hiện nay của các ngân hàng dao động trong khoảng 5,99 - 24%/năm, thay đổi tùy theo hình thức vay vốn (tín chấp/thế chấp), ngân hàng, ưu đãi về lãi suất, nhưng vẫn tuân thủ quy định của NHNN về quản lý lãi suất. Trong đó, lãi suất cho vay ngắn hạn (dưới 12 tháng) phổ biến ở mức 6,5 - 7%/năm, lãi suất cho vay trung hạn (12 - 36 tháng) ở mức 7,5 - 8%/năm, lãi suất cho vay dài hạn (trên 36 tháng) ở mức 8 - 9%/năm.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 14/3/2024, NHNN đã chủ trì phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan có liên quan tổ chức Hội nghị “Triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô” nhằm đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho doanh nghiệp và người dân. Tại Hội nghị này, NHNN thông tin đã triển khai 10 giải pháp, với cường độ triển khai cao hơn, tích cực hơn so với năm 2023 và những năm trước nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.

Phát huy thành quả đạt được trong 73 năm qua, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến thị trường, tình hình kinh tế trong và ngoài nước để điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ và giải pháp chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối. Cụ thể là, điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường, kinh tế vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; điều hành tỉ giá linh hoạt nhằm ổn định thị trường ngoại tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động điều hành tăng trưởng tín dụng nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn hệ thống; tiếp tục rà soát, hoàn thiện một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cấp tín dụng phù hợp với Luật Các TCTD năm 2024; rà soát, đánh giá và đề xuất Chính phủ để xem xét kéo dài thời gian thực hiện Thông tư số 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn.

NHNN tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp tại Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021 - 2025, Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng và Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán Việt Nam đến năm 2030; tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung tại Kế hoạch phối hợp số 01/KHPH-BCA-NHNNVN giữa Bộ Công an và NHNN triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06 nhằm thúc đẩy, tạo thuận lợi cho các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, bảo mật, tiện ích, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Có thể nói, trong 73 năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm, gắn liền với vận mệnh của đất nước và xu thế phát triển chung trong hệ thống tài chính toàn cầu. Đây là quá trình đầy chông gai, thử thách, nhưng ngành Ngân hàng đã chủ động vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng ngày càng hoàn thiện, phương thức quản lý, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động, dẫn dắt thị trường. Hệ thống các TCTD ngày càng phát triển bền vững là yếu tố quan trọng để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế và đổi mới hoạt động, nhất là trong việc áp dụng các thành quả của công nghệ về số hóa hoạt động ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt, mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng, giảm chi phí thanh toán, tăng cường tính minh bạch trong nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. 
 
Tài liệu tham khảo:

1. Cổng Thông tin điện tử NHNN.
2. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
3. Ngân hàng Thế giới.
4. Quỹ Tiền tệ quốc tế.

ThS. Vũ Xuân Thanh (NHNN) 
Theo: Tạp chí Ngân hàng