Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại. Ở trong nước, nền kinh tế Việt Nam chịu tác động về nhiều mặt, mặc dù kinh tế vĩ mô duy trì ổn định nhưng tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn; thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản có nhiều biến động... Chính sách tài khóa đã có những điều chỉnh linh hoạt, chủ động nhằm ứng phó kịp thời với những biến động trong và ngoài nước.
1. Chính sách tài khóa năm 2023 và một số khó khăn, thách thức
Năm 2023, chính sách tài khóa được điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời hỗ trợ nền kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Kết quả thực hiện chính sách tài chính - NSNN thể hiện trên các mặt sau:
Ban hành kịp thời giải pháp thu NSNN, tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp
Cùng với việc tiếp tục thực hiện miễn, giảm thuế, phí, lệ phí theo các văn bản đã ban hành năm 2022, có hiệu lực thi hành trong năm 2023, chính sách thu NSNN tiếp tục mở rộng ưu đãi trong năm 2023 theo tinh thần Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; bám sát Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15. Theo đó, thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) tiếp tục được điều chỉnh giảm từ 10% xuống còn 8% từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023 đối với hầu hết các mặt hàng đang áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10%1 để kích cầu tiêu dùng. Thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn được điều chỉnh giảm 50% từ ngày 01/01/2023 đến hết ngày 31/12/2023, trong bối cảnh giá xăng, dầu tăng mạnh, gây áp lực lên lạm phát và hoạt động sản xuất, kinh doanh2.
Một số chính sách ưu đãi khác cũng được ban hành như: Quy định lệ phí trước bạ đối với ô tô, rơ-moóc hoặc sơ-mi rơ-moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự xe được sản xuất, lắp ráp trong nước bằng 50% mức thu quy định tại Nghị định số 10/2022/NĐ-CP ngày 15/01/2022 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023; giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước năm 2022 đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-193; giảm 30% tiền thuê đất phải nộp (phát sinh thu) của năm 20234; giảm mức thu 36 khoản phí, lệ phí từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023 nhằm hỗ trợ, tiết giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp5. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ khác như gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 20236; gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước7.
Ngoài ra, nhằm tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời góp phần tăng cường quản lí và chống thất thu thuế, việc triển khai sử dụng hóa đơn điện tử đã được đẩy mạnh và được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tài chính. Đến nay, toàn bộ doanh nghiệp và hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên cả nước đã thực hiện đăng kí và chuyển đổi sử dụng hóa đơn điện tử. Kết quả từ khi triển khai đến ngày 31/12/2023, tổng số lượng hóa đơn tiếp nhận và xử lí đạt khoảng 6,28 tỉ hóa đơn, tổng số cơ sở kinh doanh đã đăng kí thành công áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền là 33.470 cơ sở, với số lượng hóa đơn sử dụng khoảng trên 33 triệu hóa đơn.
Việc triển khai có hiệu quả các giải pháp chính sách tài khóa kết hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác đã tác động tích cực đến kết quả thu NSNN năm 2023. Mặc dù thực hiện nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất, với tổng số tiền đã miễn, giảm, gia hạn đạt khoảng 193,4 nghìn tỉ đồng8 nhưng tổng thu NSNN năm 2023 vẫn đạt khoảng 1.752,5 nghìn tỉ đồng, vượt 8,12% dự toán Quốc hội giao, chủ yếu do tăng thu từ một số khoản thu quan trọng như thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, các khoản thu về nhà đất (trừ thu tiền sử dụng đất)…
Chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, bội chi NSNN được kiểm soát
Chính sách chi NSNN được tiếp tục thực hiện theo hướng chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, ưu tiên nguồn lực ổn định an sinh xã hội như: Tăng lương cơ sở từ 1,4 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng từ ngày 01/7/20239; tăng chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập10; tiếp tục thực hiện các giải pháp bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế phục vụ công tác khám bệnh, chữa bệnh11; bố trí kinh phí mua vắc-xin chương trình tiêm chủng mở rộng; tiếp tục cấp bù lãi suất cho Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ vay ưu đãi tín dụng, cho vay nhà ở xã hội… Bên cạnh đó, kỉ luật tài chính - NSNN tiếp tục được tăng cường, đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn lực Nhà nước12. Các hoạt động đầu tư công được theo dõi sát sao thông qua các kì họp của Chính phủ, các tổ công tác13 thúc đẩy giải ngân của Chính phủ nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện dự án đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công14.
Kết quả tổng chi NSNN đến ngày 31/12/2023, đạt khoảng 1.731,9 nghìn tỉ đồng, bằng 83,4% dự toán; bội chi NSNN năm 2023 ước khoảng 3,7 - 3,8% GDP, thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội cho phép (4,42% GDP).
Kiểm soát chặt chẽ nợ công, tiếp tục tái cơ cấu nợ theo hướng an toàn, bền vững
Trong năm 2023, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Chương trình quản lý nợ công 03 năm giai đoạn 2023 - 2025 và Kế hoạch vay, trả nợ công năm 202315 với các mục tiêu: Đảm bảo nguồn để trả nợ đầy đủ, đúng hạn các khoản nợ công, không ảnh hưởng đến hệ số tín nhiệm quốc gia; tiếp tục thực hiện tái cơ cấu danh mục nợ trái phiếu Chính phủ; đảm bảo nhiệm vụ huy động vốn vay thông qua đa dạng hóa nguồn vốn, phương thức vay trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu cân đối NSNN và phát triển kinh tế - xã hội với mức độ chi phí - rủi ro phù hợp; kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ trong mức trần, ngưỡng cảnh báo và thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn trong nước; tận dụng tối đa nguồn vốn nước ngoài có mức ưu đãi cao...
Việc quản lí và sử dụng vốn vay được kiểm soát chặt chẽ, các khoản vay được thực hiện hiệu quả hơn, góp phần đảm bảo các chỉ tiêu an toàn về nợ công trong giới hạn Quốc hội cho phép. Đến cuối năm 2023, dư nợ công khoảng 37% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 34% GDP, thấp hơn mức trần và ngưỡng cảnh báo được Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025.
Với kết quả trên, năm 2023, Việt Nam được cả ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P, Moody’s và Fitch Ratings đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia là tích cực, trong đó Fitch Ratings đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức BB lên mức BB+ “Triển vọng ổn định”; S&P và Moody’s giữ mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam (tương ứng là BB+ “Triển vọng ổn định”; Ba2 “Triển vọng tích cực”). Đây tiếp tục là những tín hiệu tích cực, khẳng định sự đánh giá cao của các tổ chức quốc tế về triển vọng của nền kinh tế, việc thực thi các chính sách linh hoạt, sáng tạo, kịp thời và hiệu quả của Chính phủ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.
Mặc dù chính sách tài khóa đã đạt được những kết quả tích cực, tuy nhiên việc triển khai còn gặp khó khăn, thách thức
Tiến độ một số khoản thu, sắc thuế như tiền sử dụng đất, thuế bảo vệ môi trường, thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu và thu NSNN trên địa bàn một số địa phương đạt mức thấp so dự toán, ảnh hưởng đến nguồn thực hiện các nhiệm vụ chi theo dự toán và xử lí đảm bảo cân đối ngân sách. Nguyên nhân do tình hình thế giới biến động mạnh, khó lường, tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm, xung đột chính trị, cạnh tranh nước lớn, nợ công một số nước tăng mạnh, bất ổn trên các thị trường tài chính, tiền tệ..., tác động không thuận lợi đến nền kinh tế trong nước, hoạt động của một bộ phận các doanh nghiệp còn khó khăn do thị trường bị thu hẹp.
Ngoài ra, mặc dù giải ngân chi đầu tư phát triển, các chương trình mục tiêu quốc gia đã cải thiện so với năm 2022, tính đến hết ngày 31/12/2023, giải ngân vốn đầu tư công nguồn NSNN đạt 579,85 nghìn tỉ đồng, tăng 33,1% (144 nghìn tỉ đồng) so với cùng kì năm 2022, nhưng vẫn còn chậm, bằng 79,8% dự toán của Quốc hội và 81,9% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao16, do một số nguyên nhân chính như: Giải ngân vốn đầu tư công ở một số bộ, ngành, địa phương còn chậm; tiến độ và chất lượng công tác lập, thẩm định, phê duyệt, giao phân bổ kế hoạch vốn đầu tư, việc lựa chọn dự án xây dựng danh mục, chuẩn bị danh mục đầu tư và chuẩn bị đầu tư còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao; giá nguyên, nhiên vật liệu, cước phí vận chuyển tăng cao; công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn...
2. Định hướng chính sách tài khóa năm 2024
Kinh tế thế giới năm 2024 được dự báo có nhiều thời cơ và thách thức đan xen; xung đột Nga - Ukraine ngày càng phức tạp, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, các nền kinh tế lớn tiếp tục đối mặt với tình trạng tăng trưởng thấp. Ở trong nước, bên cạnh những yếu tố thuận lợi như kinh tế vĩ mô ổn định và hồi phục tích cực, các chính sách hỗ trợ tiếp tục phát huy tác dụng là những thách thức từ nội tại nền kinh tế như các vấn đề về năng lực, hiệu quả, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế; cùng với các vấn đề an ninh - quốc phòng, chủ quyền quốc gia, biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác... Các tổ chức quốc tế đánh giá tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 còn nhiều thách thức, song vẫn sẽ đạt mức tích cực khoảng 5,5 - 6%17.
Trong bối cảnh đó, chính sách tài khóa tiếp tục được điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, có trọng tâm, trọng điểm, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh thực hiện các công trình đầu tư hạ tầng quan trọng, kết nối vùng và liên vùng, tạo nền tảng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội. Căn cứ dự toán NSNN năm 2024 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 104/2023/QH15 ngày 10/11/2023, tổng thu NSNN là 1.700,988 tỉ đồng; tổng chi NSNN là 2.119,428 tỉ đồng; bội chi NSNN là 399,400 tỉ đồng, tương đương khoảng 3,6% GDP. Để đạt được mục tiêu tài chính - ngân sách nêu trên, trong năm 2024, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục giữ vững nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Thường xuyên theo dõi sát diễn biến kinh tế thế giới và trong nước; dự báo và đánh giá đúng tình hình, nhận diện kịp thời các rủi ro. Đề xuất giải pháp điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tài khóa, phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần thúc đẩy phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về thu NSNN, tăng cường quản lí thu, phấn đấu hoàn thành dự toán thu được giao ở mức cao nhất, đảm bảo nguồn lực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống thu ngân sách theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 nhằm tiếp tục tạo thuận lợi cho người nộp thuế, mở rộng cơ sở thuế, đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế, ổn định nguồn thu NSNN, phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước và thông lệ quốc tế. Trong đó, nghiên cứu, xây dựng trình Quốc hội dự án sửa đổi, bổ sung các luật về thuế để tăng cường quản lí thu, cơ cấu lại nguồn thu bảo đảm tính bền vững; nâng cao hiệu quả công tác quản lí thu. Rà soát lại các chính sách ưu đãi về thuế, đảm bảo tính công bằng, minh bạch, khuyến khích cạnh tranh phát triển. Hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội trong pháp luật về thuế.
Ba là, quản lí chi NSNN chặt chẽ, tăng cường tiết kiệm chi, nâng cao hiệu quả quản lí, phân bổ, sử dụng NSNN, siết chặt kỉ luật, kỉ cương tài chính; tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại chi NSNN gắn với các mục tiêu về tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển bền vững. Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN theo dự toán, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi theo quy định. Tiếp tục cơ cấu lại chi đầu tư công; tập trung nguồn lực bố trí cho các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Nhà nước, các công trình trọng điểm quốc gia, các công trình có tính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội liên vùng… Cải thiện vai trò dẫn dắt, “vốn mồi” của nguồn lực NSNN; thực hiện đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị đồng bộ, hiện đại, xanh và thân thiện với môi trường. Có cơ chế thúc đẩy đầu tư, liên kết vùng, thu hút và phát huy hiệu quả nguồn vốn đầu tư xã hội.
Bốn là, quản lí, kiểm soát chặt chẽ bội chi, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN, nợ của chính quyền địa phương. Đánh giá, dự báo rủi ro về khả năng vay, sử dụng vốn vay và trả nợ; các khoản vay mới vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chỉ sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. Bố trí thanh toán trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Kiểm soát chặt chẽ nợ công, đảm bảo các chỉ tiêu trong giới hạn an toàn nợ theo quy định. Tăng cường phối hợp thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc vay, sử dụng vốn vay, trả nợ, nhất là đối với các hiệp định vay mới, vay nước ngoài, vay có bảo lãnh của Chính phủ. Tiếp tục thực hiện các giải pháp cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng an toàn, bền vững.
Năm là, đảm bảo sự vận hành ổn định, an toàn của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; xử lí nghiêm các hành vi vi phạm, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật đảm bảo chặt chẽ, đồng bộ; tháo gỡ khó khăn, phát triển bền vững trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng, chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Nâng cao tính công khai, minh bạch; tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành. Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lí nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm, đảm bảo tính răn đe, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, khôi phục niềm tin của thị trường, góp phần nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia.
1 Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội; Nghị định số 44/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 của Chính phủ quy định chính sách giảm thuế GTGT theo Nghị quyết số 101/2023/QH15.
2 Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 ngày 30/12/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn.
3 Quyết định số 01/2023/QĐ-TTg ngày 31/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của năm 2022 đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
4 Quyết định số 25/2023/QĐ-TTg ngày 03/10/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tiền thuê đất của năm 2023.
5 Thông tư số 44/2023/TT-BTC ngày 29/6/2023 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp.
6 Nghị định số 12/2023/NĐ-CP ngày 14/4/2023 của Chính phủ gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2023.
7 Nghị định số 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 của Chính phủ gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước.
8 Trong đó miễn, giảm khoảng 78,4 nghìn tỉ đồng, gia hạn khoảng 115 nghìn tỉ đồng.
9 Nghị định số 24/2023/NĐ-CP ngày 14/5/2023 của Chính phủ quy định mức lương sơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
10 Nghị định số 05/2023/NĐ-CP ngày 15/02/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011.
11 Công điện số 72/CĐ-TTg ngày 25/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục các giải pháp bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế phục vụ công tác khám bệnh, chữa bệnh.
12 Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong việc chấp hành pháp luật về tài chính - NSNN.
13 Quyết định số 235/QĐ-TTg ngày 14/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ thành lập các tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2023 tại các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương.
14 Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 07/3/2023 của Chính phủ; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08/4/2023 của Chính phủ; Nghị quyết số 74/NQ-CP
ngày 07/5/2023 của Chính phủ; Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội; Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 08/6/2023 của Chính phủ; Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 15/7/2023 của Chính phủ.
15 Quyết định số 458/QĐ-TTg ngày 28/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch vay, trả nợ công năm 2023 và Chương trình quản lý nợ công 03 năm giai đoạn 2023 - 2025.
16 Dự toán chi đầu tư phát triển năm 2023 của Quốc hội là 726,68 nghìn tỉ đồng; kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao là 708,3 nghìn tỉ đồng.
17 IMF (tháng 10/2023) dự báo tăng trưởng 2024 ở mức 5,8%, ADB (tháng 12/2023) dự báo ở mức 6% và WB (tháng 10/2023) dự báo ở mức 5,5%.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2023), Báo cáo đánh giá công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2023, triển khai nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2024.
2. Bộ Tài chính (2023), Báo cáo tình hình thực hiện NSNN các tháng năm 2023.
3. Chính phủ (2024), Báo cáo tóm tắt về công tác chỉ đạo, điều hành và kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2024.
4. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2023), Báo cáo Tình hình kinh tế - tài chính thế giới, trong nước tháng 12 và năm 2023.
TS. Nguyễn Như Quỳnh
Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính