Cho vay đặc biệt lãi suất 0%: Không lo lạm dụng khi chuyển quyền từ Thủ tướng sang Ngân hàng Nhà nước
Một số đại biểu Quốc hội lo ngại chuyển quyền cho vay đặc biệt lãi suất 0% từ Thủ tướng sang Ngân hàng Nhà nước sẽ làm xuất hiện cơ chế xin cho, lạm dụng… song Thống đốc khẳng định điều này không thể xảy ra.
Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội, tiếp tục chương trình làm việc tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, sáng 29/5, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng. Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh điều hành phiên làm việc.

Thảo luận sáng nay, đại biểu Nguyễn Hữu Thông (Bình Thuận) bày tỏ sự đồng thuận với nhiều nội dung của dự thảo, đồng thời nêu hàng loạt góp ý quan trọng liên quan đến quy định lãi suất cho vay đặc biệt, quyền thu giữ tài sản bảo đảm, nguyên tắc ưu tiên giữa nghĩa vụ tín dụng và thi hành án, cũng như cơ chế hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, vật chứng.
Về việc quy định lãi suất cho vay đặc biệt là 0%/năm (sửa đổi khoản 1 Điều 193), đại biểu đánh giá đây là một chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, thể hiện rõ vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ các tổ chức tín dụng đang trong tình trạng đặc biệt khó khăn, nhằm giữ vững an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng.
Tuy nhiên, đại biểu lo ngại quy định mức lãi suất 0%/năm mà không gắn với điều kiện áp dụng cụ thể có thể dẫn tới lạm dụng chính sách, tạo ra rủi ro, làm sai lệch môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng và tăng áp lực lên ngân sách quốc gia. Quy định này cũng có khả năng mâu thuẫn với nguyên tắc thị trường, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn lực nhà nước nếu không có cơ chế kiểm soát.
Đại biểu đề nghị cần quy định cụ thể rằng: “Lãi suất 0% chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng thuộc diện kiểm soát đặc biệt, tái cơ cấu bắt buộc hoặc có ảnh hưởng hệ thống đến sự ổn định tài chính quốc gia”. Đồng thời, bổ sung cơ chế giám sát, công khai và đánh giá hiệu quả việc sử dụng nguồn vay đặc biệt này, đại biểu nhận định.
Cùng chung quan điểm, đại biểu Nguyễn Thị Sửu (TP.Huế) cũng kiến nghị cần quy định rõ đối tượng, điều kiện để tránh tình trạng lạm dụng, các tổ chức tín dụng kéo dài tình trạng tái cơ cấu để được vay lãi suất 0%, gây bất lợi cho ngân sách.
Tương tự, đại biểu Nguyễn Hải Nam (TP.Huế) nhất trí với việc phân cấp, phân quyền cho vay đặc biệt lãi suất 0%, chuyển thẩm quyền quyết định từ Thủ tướng sang NHNN. Tuy vậy, đại biểu cho rằng, cần quy định cụ thể về điều kiện, cơ chế, quy trình, thủ tục, hạn mức vay, trách nhiệm đối với quản lý khoản vay…
Đại biểu Trần Thị Thu Đông (Bạc Liêu) cho rằng, quy định này có ưu điểm cho phép Ngân hàng Nhà nước quyết định nhanh chóng trong các tình huống rủi ro hệ thống hoặc khủng hoảng thanh khoản.
Tuy nhiên, theo đại biểu Trần Thị Thu Đông, quy định này có nhược điểm, khi việc cho vay không có tài sản bảo đảm với lãi suất 0% thì vấn đề rủi ro lại chưa có cơ chế kiểm soát và minh bạch. Vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phải báo cáo định kỳ với Chính phủ, Quốc hội về các khoản cho vay đặc biệt, các đối tượng vay, số tiền, thời hạn, kết quả. “Quy định rõ ràng tiêu chí đối tượng được hưởng vay đặc biệt, tránh bị lạm dụng để cứu những tổ chức tín dụng yếu kém không đủ điều kiện”, đại biểu nói.
Cùng quan tâm vấn đề này, đại biểu Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) cũng đề nghị làm rõ tiêu chí nào để được xem xét gia hạn, Ngân hàng Nhà nước có văn bản quy định cụ thể và có hướng dẫn trường hợp được xem xét gia hạn và cần gửi kèm theo hồ sơ dự án Luật để đại biểu Quốc hội nghiên cứu và thảo luận.
Ở một góc nhìn khác, đại biểu Nguyễn Quang Huân (Bình Dương) cho rằng, trên thực tế, sau khi Luật Các tổ chức tín dụng 2024 được ban hành, NHNN đã ban hành thông tư 37/2024/TT-NHNN quy định rất chi tiết về nguyên tắc, đối tượng, điều kiện, trình tự thủ tục… Đại biểu cũng tán thành việc trao quyền mạnh mẽ cho NHNN để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tuy vậy, đại biểu cho rằng, nên quy định theo hướng: NHNN có quyền quyết cho vay đặc biệt lãi suất 0% nhưng phải báo cáo Chính phủ tại phiên họp gần nhất.

Giải trình các vấn đề đại biểu quan tâm, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, Luật Các tổ chức tín dụng 2017 đã quy định NHNN có thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt. Tuy nhiên, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 lại chuyển thẩm quyền sang Thủ tướng.
Xuất phát từ thực tiễn biến động không ngừng của các Tổ chức tính dụng (TCTD) trong nước và trên thế giới, cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ, sự cố rút tiền hàng loạt có thể xảy ra bất cứ khi nào, cần phải xử lý nhanh. Vì vậy, trong dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Chính phủ đề xuất chuyển thẩm quyền về NHNN để xử lý nhanh, kịp thời, đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Với lo lắng của các đại biểu, Thống đốc khẳng định cho vay đặc biệt lãi suất 0% không phải thường xuyên liên tục mà chỉ xảy ra trong các trường hợp rất đặc biệt. Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã bổ sung nhiều quy định để phát hiện sớm, can thiệp sớm, can thiệp từ xa với các tổ chức tín dụng. Theo đó, các tổ chức tín dụng “có vấn đề” sẽ bị đưa vào tình trạng can thiệp sớm, đòi hỏi cổ đông phải thực hiện loạt yêu cầu của cơ quan quản lý. Nếu bị rơi vào tình trạng can thiệp sớm, trong trường hợp thiếu thanh khoản, các tổ chức tín dụng này vẫn có thể được vay đặc biệt từ NHNN nhưng phải chịu lãi suất (không được vay lãi suất 0%).
“Việc vay đặc biệt lãi suất 0% chỉ áp dụng với trường hợp TCTD bị rút tiền hàng loạt, vì một khi tình trạng rút tiền hàng loạt thì có thể lây lan toàn hệ thống”, Thống đốc cho biết.
Việc quy định điều kiện cụ thể cho vay đặc biệt lãi suất 0%, theo Thống đốc, là rất khó bởi thực tế trên thị trường mỗi TCTD lại rơi vào một trường hợp khác nhau. Tại Mỹ, có ngân hàng hoạt động 2 năm liên tiếp có lãi nhưng sự cố rút tiền hàng loạt vẫn xảy ra. Sự cố rút tiền hàng loạt nhiều khi không phải do TCTD yếu kém mà đôi khi do tin đồn, do sự cố công nghệ… Khi sự cố này xảy ra, đòi hỏi phải xử lý rất nhanh.
Đối với cho vay đặc biệt không tài sản đảm bảo, theo Thống đốc, trường hợp này chỉ xảy ra khi TCTD đã thực sự khó khăn, “cạn” tài sản đảm bảo. NHNN khi cho vay đặc biệt bao giờ cũng yêu cầu trước tiên là phải có tài sản đảm bảo, ưu tiên các tài sản có thanh khoản cao (hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo các khoản vay của TCTD, trái phiếu Chính phủ do TCTD đó nắm giữ…).