Dự báo giá tiêu ngày 9/7/2024: Liệu có chạm mốc 160.000 đồng/kg Dự báo giá tiêu ngày 10/7/2024: Giá tiêu tiếp đà tăng sốc? |
Dự báo giá tiêu ngày 11/7/2024, từ đầu năm đến nay, giá hạt tiêu Việt Nam trên đà tăng mạnh, đặc biệt vào nửa đầu tháng 6, giá tăng “nóng” khi đạt đỉnh 180.000 đồng/kg vào ngày 12/6 đã được nhiều người kỳ vọng hồ tiêu sẽ trở lại thời hoàng kim.
Tuy nhiên, sau khi lập đỉnh thì đến nay, giá tiêu giảm và thay đổi liên tục, dao động quanh mốc 150.000 – 160.000 đồng/kg, nhưng vẫn được xem là mức cao kỷ lục tính trong 10 năm trở lại đây. Giá tiêu ở mức cao khiến người dân rất phấn khởi và yên tâm hơn để chăm sóc vườn tiêu đang có. Đặc biệt, cùng với nhiều mặt hàng nông sản tăng giá cao như hiện nay, hồ tiêu trở thành “của để dành”, nông dân vẫn chưa vội bán.
Theo nhiều nông dân ở các vùng trồng tiêu, mặc dù giá tăng nhưng người trồng được hưởng lợi không nhiều do đa số vườn tiêu lâu năm đã bị thay thế bằng sầu riêng và một số loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn. Mặt khác, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nên năng suất tiêu giảm mạnh trong những năm gần đây, trung bình từ 20 - 30%.
Dự báo giá tiêu ngày 11/7/2024: Quay đầu giảm sốc? |
Tại thị trường trong nước, giá tiêu hôm nay ngày 10/7/2024, tại khu vực Đông Nam Bộ tiếp đà tăng 2.000 đồng ở một số địa phương, giao dịch quanh mốc 153.000 -154.000 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông là 154.000 đồng/kg.
Giá tiêu Đắk Lắk được thu mua ở mức 154.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg so với ngày hôm qua. Giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) hiện ở mức 153.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg so với ngày hôm qua. Giá tiêu Đắk Nông hôm nay ghi nhận ở mức giá 154.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg so với ngày hôm qua.
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay tăng 2.000 đồng/kg so với ngày hôm qua. Cụ thể, tại Bà Rịa – Vũng Tàu ở mức 153.000 đồng/kg; tại Bình Phước, giá tiêu ở mức 153.000 đồng/kg.
Tại thị trường thế giới, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 7.155 USD/tấn, tăng 0,18%; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 7.150 US/tấn, giảm 1,37%; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA mức 7.500 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 9.110 USD/tấn, tăng 0,45%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA ở mức 8.800 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam đồng loạt giữ giá ở mốc cao giao dịch ở 6.000 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 6.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 8.800 USD/tấn .IPC tiếp tục tăng nhẹ giá tiêu tại Indonesia, giảm ở Brazil.
Giá tiêu trong nước ngày 10/7/2024
Tỉnh, thành | ĐVT | Giá mua của thương lái | Tăng/giảm so với hôm qua |
Chư Sê (Gia Lai) | đồng/kg | 153.000 | +2.000 |
Đắk Lắk | đồng/kg | 154.000 | +2.000 |
Đắk Nông | đồng/kg | 154.000 | +2.000 |
Bình Phước | đồng/kg | 153.000 | +2.000 |
Bà Rịa -Vũng Tàu | đồng/kg | 153.000 | +2.000 |
Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế cũng đánh giá, thị trường tuần đầu tháng 7/2024 cho thấy phản ứng trái chiều.
Cụ thể, tại khu vực Nam Á, giá tiêu giao dịch trong nước và quốc tế của Ấn Độ ổn định trong tuần trước. Còn giá tiêu nội địa Sri Lanka tiếp tục tăng trong 2 tuần qua.
Ở Đông Nam Á, giá tiêu nội địa và xuất khẩu của Indonesia ổn định trong tuần trước, khi một số nông dân ở tỉnh Lampung chuẩn bị cho vụ thu hoạch vào tháng sau. Chỉ có giá tiêu trắng nội địa Malaysia ghi nhận giảm trong tuần qua, trong khi, các loại khác ổn định và không thay đổi.
Giá tiêu đen nội địa và xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận tăng trong tuần trước.
Giá tiêu đen Brazil tiếp tục giảm trong 3 tuần qua. Giá tiêu trắng Trung Quốc và tiêu đen Campuchia đều ổn định và không thay đổi.
Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam thông tin, đứng đầu xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục là Olam Việt Nam đạt 13.278 tấn, tăng 56,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tiếp theo là các doanh nghiệp: Phúc Sinh: 11.339 tấn, tăng 37,5%; Nedspice Việt Nam: 10.349 tấn, tăng 8,5%; Haprosimex JSC: 10.054 tấn, tăng 58,8% và Trân Châu: 9.066 tấn, giảm 8,7%.
Các doanh nghiệp xuất khẩu tiêu trắng hàng đầu bao gồm: Olam Việt Nam: 2.400 tấn, Nedspice Việt Nam: 2.352 tấn, Phúc Sinh: 1.191 tấn, Liên Thành: 952 tấn và Trân Châu: 719 tấn. Khối các doanh nghiệp trong Hiệp hội xuất khẩu chiếm 85,6% và tăng 35,5% so với cùng kỳ.
*Thông tin mang tính tham khảo