Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 tới đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và Việt Nam

07/03/2022 - 15:50
(Bankviet.com) Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là tác động đến kinh tế một cách mạnh mẽ với các lĩnh vực chủ chốt của kinh tế đối ngoại như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tình hình này đòi hỏi các quốc gia và Việt Nam cần có những phân tích, đánh giá phù hợp để nắm bắt và thích ứng tốt nhất với cuộc cách mạng này.

1. Tổng quan về cách mạng Công nghiệp lần thứ 4

Lịch sử thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng về sản xuất cơ khí vào những năm cuối thế kỷ 18, cuộc cách mạng về sản xuất hàng hóa hàng loạt vào cuối thế kỷ 19, và cuộc cách mạng số hóa vào những năm 1960 và giờ đây là kỷ nguyên của công nghệ 4.0.

Được xây dựng dựa trên nền tảng kỹ thuật số; đây là cuộc cách mạng, đại diện cho những công nghệ mới. CMCN 4.0 được đánh dấu bởi công nghệ mới đột phá trong một số lĩnh vực bao gồm dữ liệu lớn, robotics, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ nano, công nghệ sinh học, Internet vạn vật (IoT), in 3D, và xe tự lái. Xu thế ứng dụng công nghệ mới này tạo ra những khả năng hoàn toàn mới trong sản xuất và kinh doanh, có tác động sâu sắc tới các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế thế giới. Các hệ thống sản xuất toàn cầu sẽ được kết nối với nhau, kết nối với sức mạnh của những công nghệ tính toán, phân tích tiên tiến, kết nối với hệ thống cảm biến giá rẻ thông qua các phương thức kết nối mới dựa trên internet. Sự phát triển bùng phát của các hệ thống sản xuất tiên tiến dựa trên số hóa và kết nối, hay còn được gọi là các “Hệ thống tích hợp số - vật lý” (Cyber – physical systems – CPS), sẽ mang lại những sản phẩm và dịch vụ đủ tốt, rẻ, số lượng nhiều, và phong phú.

2. Các đặc trưng của công nghệ 4.0 với FDI

Thứ nhất, dữ liệu lớn (Big data) và phân tích dữ liệu lớn. Việc kết nối những dữ liệu chính xác và số lớn từ thu thập thông tin, dữ liệu đầu vào thông qua sử dụng phần mềm phân tích dữ liệu trên các thiết bị siêu máy tính để ước lượng toàn bộ các nguồn dữ liệu khác nhau.

Các đặc điểm của Big data là: dung lượng lớn, tốc độ xử lý cao, đa dạng về chủng loại, và giá trị to lớn tiềm ẩn, đặt ra bài toán cho việc xử lý dữ liệu hiệu quả để khai thác tiềm năng của dữ liệu lớn, phục vụ hiệu quả cho các nhiệm vụ kinh tế xã hội của các quốc gia toàn cầu.

Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có thể ra quyết định nhanh chóng và có cơ sở chắc hơn trước vì họ có cả một hệ thông tin đồ sộ từ mọi góc độ khía cạnh về môi trường đầu tư ở nước sở tại, các rào cản đầu tư, các nhà đầu tư FDI đã có ở thị trường Việt Nam… để từ đó có các cơ sở chắc chắn cho việc ra các quyết định đầu tư ở đâu nhằm tối đa các mục tiêu của họ. Ví dụ, Tập đoàn Samsung để ra quyết định đầu tư trước khi đưa nhà máy vào Thái Nguyên của Việt Nam đã phân tích tới hơn 1000 tiêu chí. Có thể nói, điều này là cơ hội nhưng cũng là thách thức cho các quốc gia trong đó có Việt Nam.

Thứ hai, điện toán đám mây (cloud computing): Mô hình điện toán cho phép truy cập qua mạng để lựa chọn và sử dụng tài nguyên tính toán theo nhu cầu một cách thuận tiện và nhanh chóng; đồng thời cho phép sử dụng dịch vụ, giải phóng tài nguyên dễ dàng, giảm thiểu giao tiếp với nhà cung cấp. Điện toán đám mây chỉ đơn giản là một tập hợp các tài nguyên máy tính gộp lại và các dịch vụ cung cấp trên web. Với các dịch vụ sẵn có trên internet, doanh nghiệp không phải mua và duy trì hàng trăm, thậm chí hàng nghìn máy tính cũng như phần mềm. Họ chỉ cần tập trung vào kinh doanh lĩnh vực riêng của mình bởi đã có người khác lo cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin thay họ. Như vậy, do đặc trưng nêu trên bị ảnh hưởng kéo theo ngành sản xuất linh kiện máy tính, sản xuất máy tính, phần mềm... sẽ có thể không thu hút được FDI nữa. Đây lại là những lĩnh vực Việt Nam và nhiều nước đang phát triển thu hút được FDI nhiều nhất.

Thứ ba, mạng lưới vạn vật kết nối (IoT): Nền công nghiệp 4.0 sản xuất ra nhiều thiết bị thông minh hơn. IoT tạo ra sự hội tụ giữa các ứng dụng vật lý và các ứng dụng kỹ thuật số. Cùng với sự phổ biến của công nghệ điện toán đám mây, IoT cho phép việc truyền thông tin và giao tiếp toàn cầu gần như tức thời, là tiền đề ra đời những mô hình kinh doanh mới và những cách thức cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà trước đây là điều không tưởng. IoT cho phép con người giám sát trạng thái và các hoạt động của các đối tượng vật lý đến một mức rất chi tiết. Từ việc giám sát dòng các sản phẩm đi qua nhà máy, đo độ ẩm trên cánh đồng cây trồng, đến theo dõi dòng chảy của nước qua ống dẫn, IoT tạo thuận lợi cho việc quản lý tài sản và tối ưu hóa hiệu suất, cho tự động hóa trong mọi lĩnh vực của cuộc sống từ sản xuất đến cung ứng hàng hóa, chăm sóc sức khỏe…Như vậy, việc di chuyển các nhà máy sản xuất theo kiểu FDI (greenfield) có thể sẽ không còn vì các mô hình kinh doanh đều tự động hóa, làm việc từ xa, việc cung cấp hàng hóa dịch vụ không cần tiếp cận nhà cung cấp, lúc này FDI vào lĩnh vực Logistic thông minh sẽ mạnh mẽ hơn.

Thứ tư, công nghệ In 3D (3D Printing): Công nghệ tạo ra một đối tượng vật lý bằng cách bồi đắp dần các lớp vật liệu từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước. Các công ty trên thế giới đã bắt đầu sử dụng phương pháp này để tạo ra những giá trị mới cho nền kinh tế toàn cầu và cũng làm thay đổi cách sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

Công nghệ sản xuất bồi đắp hiện nay đã có mặt trên thế giới bao gồm các phiên bản công nghệ như SLA, FDM, MJM, 3DP, SLS. Với nền công nghiệp 4.0, sản xuất bồi đắp sẽ được sử dụng rộng rãi để sản xuất từng phần nhỏ của những sản phẩm đặc chế mang đến những thuận lợi về cấu trúc.

Công nghệ in 3D sẽ làm thay đổi mô hình sản xuất. Công nghệ in 3D cho phép sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền sản xuất không phải qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ và loại bỏ các khâu sản xuất trung gian và giảm chi phí sản xuất. Như vậy, nếu khu vực FDI ở Việt Nam trước đây luôn đòi hỏi có mạng lưới các doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm trung gian (công nghiệp phụ trợ) thì với công nghệ in 3D, yếu tố này sẽ không còn đóng vai trò quan trọng như hiện nay nữa. Vì vậy, chiến lược phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho khu vực FDI sẽ phải thay đổi trong tương lai. Với điểm này, công nghệ 4.0 giúp Việt Nam khắc phục điểm yếu khó tháo gỡ để đáp ứng yêu cầu của khu vực FDI từ trước tới nay.

Những sản phẩm hàng loạt sẽ được thay thế bằng những sản phẩm tùy biến theo yêu cầu của từng khách hàng riêng biệt với chi phí rẻ hơn. Do đó, các nhà kinh doanh, nếu muốn tạo ra sự khác biệt hoặc chiếm lĩnh được thị trường bắt buộc phải tập trung vào phát triển những yếu tố khác của sản phẩm, ví dụ như thiết kế, chuỗi cung ứng cũng như dịch vụ hoặc chức năng đi kèm. Tất cả những điều này sẽ kéo theo thay đổi lớn về các mô hình kinh doanh, chuỗi cung ứng giá trị sản phẩm cũng như dịch vụ khách hàng.

Công nghệ in 3D sẽ khiến cho nhu cầu tìm kiếm nhân công giá rẻ bị thay thế bởi nhu cầu về nhân công có năng lực sáng tạo, trình độ cao và chuỗi cung ứng gần hơn với thị trường tiêu thụ về mặt địa lý nhằm có thể đáp ứng mọi nhu cầu riêng biệt của khách hàng trong thời gian ngắn nhất.

Thứ năm, tự động hóa: Dự báo của giới chuyên gia, CMCN 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ các ngành sản xuất và dịch vụ, nhất là việc ứng dụng các robot tự động hóa hoặc thiết bị tự hành vào quá trình sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ. Các thiết bị robot hữu hình sẽ có mặt trong hầu hết các nhà máy, trong đời sống con người, trong các cửa hàng, cửa hiệu như một phần của nguồn lực xã hội. 

Như vậy, khu vực FDI hiện có ở Việt Nam chủ yếu sử dụng nhiều lao động rẻ như các nhà máy của Samsung, các nhà máy lĩnh vực dệt may... sẽ thay thế bằng robot tự động. Các dự án FDI sử dụng nhiều lao động sẽ giảm xuống đòi hỏi Việt Nam cần có điều chỉnh chính sách thu hút FDI trong thời gian tới.

Thứ sáu, hội tụ hệ thống: Với CMCN 4.0, các công ty, phòng ban trở nên gắn kết hơn, bởi toàn bộ các mạng lưới thông tin đồng nhất giúp hiệu lực hóa chuỗi giá trị tự động.

Hoạt động hội nhập hay hội tụ này được gắn kết, kết nối thông qua các ứng dụng phần mềm, các ứng dụng trợ lý ảo, không gian tương tác màn hình ba chiều theo thời gian thực với các thiết bị phần cứng hỗ trợ (máy chiếu 3D, kính 3D, âm thanh 3D, mùi vị...) có thể làm việc từ xa mà như trực tiếp. Điều này sẽ hình thành liên kết kinh doanh giữa các công ty đa quốc gia (MNES) ngày càng phát triển và các doanh nghiệp trong nước tiếp nhận đầu tư để hợp tác kinh doanh dưới sự cho phép, chuyển giao công nghệ của các MNEs mà không cần các dự án FDI hiện diện tại nước sở tại. Tất cả các công nghệ đều sẽ hội tụ lại và giúp cho mọi việc diễn ra theo một quá trình xuyên suốt, dễ dàng và đa chiều. Điều này giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho các nhà đầu tư nước ngoài rất nhiều.

Tác động này không chỉ diễn ra ở một vài nước mà ở trên phạm vi toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Với một nền kinh tế có độ mở ngày càng cao, Việt Nam không tránh khỏi tác động của CMCN 4.0 đến các lĩnh vực kinh tế, kinh tế đối ngoại mà FDI là một trọng tâm của kinh tế đối ngoại của Việt Nam.

Bảng: Độ mở của  nền kinh tế Việt Nam


Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu xuất khẩu và GDP hiện hành từ Tổng cục Thống kê Việt Nam

Biểu đồ: Độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam 2008-2019


 

Hình 1: Tác động của CMCN 4.0.


Nguồn: Báo cáo “Cách mạng công nghiệp 4.0”. Bộ Khoa học công nghệ

Thứ bảy, công nghệ 4.0 với sự dịch chuyển các nhà máy FDI: CMCN 4.0 sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức, tạo lập một xã hội thông minh. Các thành tựu mới của KHCN đều được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, quản lý, tiêu dùng như hạ tầng thông minh, xây dựng thông minh, dây chuyền thông minh, sản phẩm thông minh, quản trị thông minh…Với sự phát triển của số hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông chi phí thấp ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất đang dịch chuyển từ các nước có nhiều lao động kỹ năng phổ thông và tài nguyên sang các nước có nhiều lao động trình độ cao và gần thị trường tiêu thụ. Trong tương lai, động lực tăng trưởng kinh tế sẽ là đổi mới công nghệ và sáng tạo.

Công nghệ 4.0 có bốn tác động đối với doanh nghiệp, bao gồm: (1) về kỳ vọng của khách hàng; (2) về nâng cao chất lượng sản phẩm; (3) về đổi mới hợp tác; (4) về các hình thức tổ chức. Tốc độ đổi mới và các đổ vỡ kéo theo đã liên tục gây bất ngờ ngay cả đối với các doanh nghiệp có liên kết tốt nhất và có được thông tin tốt nhất. Về phía cung, trong nhiều ngành công nghiệp, đang xuất hiện các công nghệ tạo ra những phương thức hoàn toàn mới đáp ứng các nhu cầu hiện tại và phá vỡ đáng kể các chuỗi giá trị công nghiệp hiện có. Những thay đổi lớn về phía cầu cũng đang xảy ra, như sự minh bạch ngày càng tăng, sự tham gia của người tiêu dùng, và các hình mẫu mới về hành vi của người tiêu dùng (ngày càng được xây dựng dựa trên sự truy cập vào các mạng di động và dữ liệu) buộc các công ty thích nghi với cách họ thiết kế, tiếp thị và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ. Từ đó tạo ra sự phát triển các nền tảng công nghệ mới, cho phép kết hợp cả cung và cầu để phá vỡ cấu trúc ngành công nghiệp hiện có, ví dụ như những nền tảng trong nền kinh tế “chia sẻ” hoặc “theo yêu cầu”.

Các ngành công nghiệp sáng tạo đã tăng trưởng nhanh hơn các ngành sản xuất và dịch vụ truyền thống. Động lực chính của mức tăng trưởng này là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đa phương tiện và viễn thông, đặc biệt là sự phát triển của điện thoại di động.

Công nghệ chế tạo dựa trên nền tảng công nghệ mới, công nghệ ứng dụng mới đã xóa mờ dần ranh giới giữa các khâu trong quy trình sản xuất. CMCN 4.0 làm thay đổi căn bản cách thức sản xuất. Trước đây, các nhà máy được chuyển đến những nơi có chi phí lao động thấp để lắp ráp các linh kiện, chi tiết, còn trong CMCN 4.0, nhân công không còn được sử dụng nhiều, các khâu lắp ráp, gia công được thay thế bằng các robot, chi phí nhân công trở nên ít quan trọng. Do vậy, có thể dự báo sự dịch chuyển của các nhà máy của các tập đoàn lớn từ khu vực ASEAN hay Trung Quốc về các nước phát triển để gần thị trường tiêu thụ.

CMCN 4.0 đang tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ và sáng tạo. Vốn đầu tư ban đầu có thể không lớn nhưng mang về lợi nhuận cao và nhanh chóng. Làn sóng FDI trên thế giới sẽ thay đổi ngành nghề đầu tư nhiều hơn vào công nghệ và sáng tạo thay vì công nghiệp chế biến như hiện nay.

Thứ tám, công nghệ 4.0 với cơ cấu việc làm khu vực FDI tại nước tiếp nhận đầu tư. CMCN 4.0 thúc đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội ở nhiều nước. Trong đó, ngày càng xuất hiện nhiều tầng lớp, giai cấp sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, thiết kế, nghệ thuật, văn hóa, giải trí, truyền thông, giáo dục, y tế.

CMCN 4.0 tác động đến cơ cấu việc làm nói chung và như vậy cũng tác động đến việc làm của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trước mắt, thất nghiệp có thể tăng trong các ngành sản xuất giản đơn (lắp ráp, dệt may…). Cần lưu ý, đại đa số các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng xuất khẩu mạnh lên tới 70% trong lĩnh vực dệt may ở Việt Nam. Người lao động sẽ phải dịch chuyển từ các ngành sản xuất giản đơn sang các ngành công nghiệp mới. Tuy nhiên, trong dài hạn, CMCN 4.0 sẽ tác động trực tiếp đến các ngành sử dụng nhiều lao động trình độ thấp, do lao động được dần thay thế bằng các hệ thống điều khiển tự động, robot thông minh.

Thứ chín, công nghệ 4.0 với tình trạng gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp FDI.

Nhiều nhà nghiên cứu nhận định các tác động CMCN 4.0 đến môi trường là tích cực nhờ các công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu và thân thiện với môi trường. Các công nghệ giám sát môi trường cũng đang phát triển nhanh, đồng thời còn được hỗ trợ bởi Internet vạn vật, giúp thu nhập và xử lý thông tin liên tục 24/7 theo thời gian thực, ví dụ thông qua các phương tiện như máy bay không người lái được kết nối bởi Internet được trang bị các camera và các bộ phận cảm ứng có khả năng thu nhập các thông tin số liệu cần thiết cho việc giám sát. Vì vậy, các dự án FDI trong tương lai sẽ bắt buộc áp dụng công nghệ 4.0 và do đó, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường, vẫn gây ra cho các nước sở tại mà vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà đầu tư nước ngoài thường trốn tránh nghĩa vụ chi phí cho bảo vệ môi trường sống ở nước tiếp nhận đầu tư.

Thứ mười, công nghệ 4.0 với sản xuất của các doanh nghiệp FDI: Một số nước phát triển như Mỹ, Đức… đang có vị thế thuận lợi để dẫn đầu xu thế CMCN 4.0. Nếu việc triển khai diễn ra thành công như các dự báo hiện nay, thì từ khoảng giữa thập niên 2020 các nước phát triển sẽ có động lực lớn thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện sức cạnh tranh. Sức mạnh chính trị - kinh tế sẽ thuộc về các nước sáng tạo và làm chủ các công nghệ sản xuất lõi, chứ không phải các nước sở hữu nhiều tài nguyên và lao động. Vì vậy, nếu các nước đang phát triển không tranh thủ được các công nghệ này, thì khoảng cách với các nước phát triển sẽ bị nới rộng hơn.

Thời gian qua, các nền kinh tế đang nổi đã thu hẹp đáng kể khoảng cách với các nước phát triển về quy mô kinh tế (về lượng), nhưng khoảng cách về khoa học – công nghệ và chất lượng thể chế (về chất) vẫn còn lớn. Nếu các nền kinh tế đang nổi không cải cách sâu rộng về thể chế kinh tế, xã hội để tạo dựng nền kinh tế có hiệu quả, khuyến khích đổi mới và sáng tạo, thì khó có thể đuổi kịp các nước phát triển. Do vậy, việc tiếp tục tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực công nghệ cao vẫn là mục tiêu rất quan trọng của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, song sẽ càng khó khăn hơn vì có sự dịch chuyển dòng vốn quay lại các nước phát triển vốn đã mạnh sẽ mạnh hơn với việc làm chủ của công nghệ 4.0.

Mười một, công nghệ 4.0 làm thay đổi tư duy và tổ chức lại các chuỗi sản xuất – giá trị của các doanh nghiệp FDI trên quy mô toàn cầu. Với tính tích hợp và linh hoạt cao, CMCN 4.0 xóa mờ dần ranh giới giữa các khâu/công đoạn và quy trình sản xuất, đặc biệt là các khâu thiết kế, gia công, lắp ráp sản phẩm chế tạo, làm thay đổi căn bản cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên “cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất – giá trị.

Hình 2: Tác động trực tiếp của công nghiệp 4.0 đến sản xuất, kinh doanh nói chung trong đó có các doanh nghiệp FDI.


Nguồn: Báo cáo “Cách mạng công nghiệp 4.0”. Bộ Khoa học công nghệ.

Mười hai, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động – xã hội. CMCN 4.0 đang thúc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nhiều nước. Đang xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp/ giai cấp sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, công nghệ thiết kế, nghệ thuật, văn hóa, giải trí, truyền thông, giáo dục – đào tạo, y tế, pháp luật. Cùng với sự phát triển của CMCN 4.0 và kinh tế sáng tạo, lao động sáng tạo ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội. Như vậy, dòng vốn FDI cũng sẽ kéo theo sự thay đổi lĩnh vực đầu tư.

Mười ba, công nghệ 4.0 với lợi thế nguyên liệu rẻ của nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (host countries). Trước đây, các nước đang phát triển là nơi thu hút FDI dựa trên lợi thế nguyên liệu rẻ, chi phí nhân công thấp. Tuy nhiên, điều này sẽ mất dần do chính bản thân các nước này không còn các lợi thế này (chủ quan) và do CMCN 4.0 đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế và đầu tư trên quy mô toàn thế giới, trong đó có các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển cần tập trung cho các định hướng, chính sách FDI thích ứng với bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ.

 3. Một số đề xuất

Để thích ứng tốt với các thay đổi của dòng vốn FDI vì lý do từ cuộc CMCN 4.0, rất cần có các giải pháp phù hợp, tác giả đưa ra một số đề xuất mang tính vĩ mô như sau:

Thứ nhất: Các quốc gia tiếp nhận FDI chủ động đa dạng các ngành nghề, trong đó, tập trung chuyển hướng sang ngành nghề có lao động hàm lượng chất xám cao. Việc này rất quan trọng để có thể chuẩn bị sẵn cho nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình chuyển đổi do tác động của CMCN 4.0.

Thứ hai: Có chiến lược đón đầu dòng vốn FDI thay đổi theo công nghệ 4.0 phù hợp với mục tiêu phát triển của quốc gia mình. Cực cạnh tranh lại nghiêng về các quốc gia phát triển nơi giữ công nghệ nguồn và vẫn là các quốc gia có lợi thế trong CMCN 4.0, đòi hỏi các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam cần chủ động hoàn thiện chiến lược thu hút FDI gắn với công nghệ 4.0 để đưa vào thực thi càng sớm càng tốt.

Thứ ba: Tiếp tục rà soát và bổ sung điều chỉnh các chính sách thương mại quốc tế, chính sách đầu tư quốc tế của các nước có tính đến các tác động của CMCN 4.0. Việt Nam đã có Luật đầu tư năm 2020, tuy nhiên, cần xem xét thêm đến các công cụ chính sách nhằm thu hút FDI sao cho phù hợp với xu thế diễn ra tất yếu của cách mạng công nghệ 4.0. Đến lúc này, cần có các chính sách cấu thành của chính sách đầu tư quốc tế bao gồm các ưu đãi, khuyến khích các lĩnh vực đầu tư, chính sách xúc tiến đầu tư mới gắn với bối cảnh 4.0.

Tài liệu tham khảo:

- Bộ Khoa học và Công nghệ, Báo cáo “Cách mạng công nghiệp 4.0”

- Phan Xuân Dũng (chủ biên). Công nghệ và chuyển giao công nghệ. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, 2017.

- Bùi Thúy Vân (2017),  Giáo trình đầu tư quốc tế (GTNB), Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ kế hoạch và đầu tư

- Bùi Thúy Vân (2020),  Cơ hội và thách thức của công nghệ 4.0 đến tuyển sinh và đào tạo ở Việt Nam,  Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ, số 10

- www.gso.gov.vn

- www.moit.gov.vn

- www.most.gov.vn

- www.adb.org

TS. Bùi Thúy Vân

Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ