Tín dụng chính sách xã hội: “Điểm sáng” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo

17/08/2023 - 02:08
(Bankviet.com) Tín dụng chính sách xã hội đã trở thành “điểm sáng” và là “trụ cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước.
Hội tụ nội lực thực thi tín dụng chính sách xã hội Tín dụng chính sách xã hội: Đòn bẩy kinh tế giúp đồng bào thoát nghèo Vốn tín dụng chính sách triển khai đến 100% thôn, xóm, bản, làng

Khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước

Tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Tín dụng chính sách xã hội với vấn đề thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội” tổ chức sáng nay (16/8), GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nêu rõ, tín dụng chính sách xã hội là chủ trương độc đáo, mang tính nhân văn sâu sắc, đã trở thành một “điểm sáng” và là một trong những “trụ cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh và an ninh xã hội của Đảng, Nhà nước ta trong tiến trình đổi mới, thể hiện nổi bật tính ưu việt của chế độ ta.

Đây là quyết sách phù hợp với thực tiễn và điều kiện phát triển của Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, không đủ điều kiện vay vốn ở các ngân hàng thương mại, bảo đảm sinh kế và sự phát triển của người dân.

Đến nay, tín dụng chính sách xã hội đã được triển khai rộng rãi, sáng tạo, có hiệu quả trên toàn quốc, thật sự đi vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ và cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Tín dụng chính sách xã hội: “Điểm sáng” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo
GS. TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu khai mạc Hội thảo

Theo GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, nhiều năm qua, nguồn vốn vay tín dụng chính sách đã mang lại sinh kế, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy bình đẳng giới, đồng thời góp phần ngăn chặn các tệ nạn cho vay nặng lãi, tín dụng “đen”, giúp đảm bảo an sinh, trật tự và an toàn xã hội tại các địa phương, nhất là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Các chương trình tín dụng chính sách xã hội đã cung cấp nguồn lực thực hiện quan trọng và thật sự trở thành cấu phần bổ trợ tất yếu của các Chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Với chức năng bổ sung cho nhau, tín dụng chính sách và tín dụng thương mại là hai kênh tài chính song hành mang đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần vừa thực hiện mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, vừa thực hiện các mục tiêu về phát triển xã hội, nổi bật nhất là đưa tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam từ mức gần 60% trong những năm 1990 xuống còn 4,3% năm 2022 theo chuẩn nghèo đa chiều.

“Những thành tựu to lớn đó khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn, sáng tạo với những quyết sách kịp thời, nhạy bén, nhất quán trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, lấy người dân là trung tâm theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân giám sát” – GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng nói.

Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đánh giá cao việc Ngân hàng Chính sách xã hội là một trong những ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt nhất, tỷ lệ nợ xấu thấp nhất trong toàn hệ thống ngân hàng. Qua hơn 20 năm hoạt động và phát triển, nhất là sau khi có Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư, Ngân hàng Chính sách xã hội đã thật sự khẳng định được sứ mệnh và vai trò, trách nhiệm xã hội to lớn của mình, phát huy có hiệu quả mô hình thiết chế sáng tạo, đặc thù trong việc thực hiện tín dụng chính sách, khơi dậy truyền thống nhân ái, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam, nhằm thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi, trong từng triến trình và suốt công cuộc đổi mới.

Tín dụng chính sách xã hội: “Điểm sáng” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại hội thảo

Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ

Theo Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội Dương Quyết Thắng, với phương châm “Trung ương và địa phương cùng làm”, “Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm”, hàng năm, Ngân hàng Chính sách xã hội đã chủ động, linh hoạt huy động có hiệu quả hàng chục ngàn tỷ đồng từ các nguồn ngân sách nhà nước, nhận nguồn vốn ủy thác từ ngân sách các địa phương, phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và huy động của các tổ chức, cá nhân trên thị trường… bảo đảm nguồn vốn cơ bản ổn định để cung cấp tín dụng ưu đãi, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

“Luôn nêu cao khẩu hiệu hành động “thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, Ngân hàng Chính sách xã hội đã xây dựng mạng lưới hoạt động rộng khắp toàn quốc, triển khai kịp thời, trên diện rộng chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ “nơi nào có người nghèo và đối tượng chính sách, nơi đó có Ngân hàng Chính sách xã hội” – ông Dương Quyết Thắng cho hay.

Tính đến 31/7/2023, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt trên 305 nghìn tỷ đồng, tăng gần 176 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2014, với hơn 6,6 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt khoảng 10%. Các chương trình tín dụng chính sách đã cung cấp nguồn lực thực hiện quan trọng và thật sự trở thành cấu phần bổ trợ tất yếu của các Chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Tín dụng chính sách góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước qua các giai đoạn, cụ thể: giai đoạn 2001 - 2005 từ 17% xuống 7%; giai đoạn 2005 - 2010 từ 22% xuống 9,45%; giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống 4,25%; giai đoạn 2016 - 2021 từ 9,88% xuống 2,23%. Đồng thời, góp phần thực hiện 09/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới (về nhà ở dân cư; về thu nhập; tỷ lệ hộ nghèo; lao động có việc làm, tổ chức sản xuất; giáo dục và đào tạo; môi trường và an toàn thực phẩm; xây dựng hệ thống chính trị; quốc phòng và an ninh).

Tín dụng chính sách xã hội: “Điểm sáng” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo
Ông Dương Quyết Thắng, Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội phát biểu tại Hội thảo

Từ góc độ là nhiệm vụ của cơ quan tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng chí Đỗ Ngọc An, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng chỉ ra một yếu tố quan trọng giúp tín dụng chính sách phát huy hiệu quả mạnh mẽ trong 10 năm qua đó là việc triển khai Chỉ thị 40-CT/TW song hành với công tác giám sát thường xuyên.

Chính từ sự giám sát này và kết quả sơ kết 05 năm triển khai cho thấy một số hạn chế, khó khăn trong triển khai Ban Kinh tế Trung ương đã kiến nghị Ban Bí thư ban hành Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW trong đó chỉ đạo các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần xác định công tác tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng chính sách xã hội; bố trí đủ, kịp thời nguồn tài chính tín dụng chính sách xã hội; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp uỷ, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động tín dụng chính sách xã hội; các địa phương cân đối, ưu tiên bố trí ngân sách địa phương uỷ thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội…

Kết quả là Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đã quan tâm, ưu tiên dành nguồn lực ngày càng tăng để thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Đến 31/7/2023, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đạt gần 325 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 190 nghìn tỷ đồng (gấp 2,4 lần) so với khi bắt đầu thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 10,4%; trong đó ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội đến nay đạt gần 35 nghìn tỷ đồng, tăng 30.863 tỷ đồng so với trước khi có Chỉ thị số 40-CT/TW.

Trong 9 năm thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW, tổng doanh số cho vay đạt 605.167 tỷ đồng, với hơn 18.600 nghìn lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn. Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã góp phần thu hút, tạo việc làm cho gần 3,3 triệu lao động, trong đó gần 42 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp hơn 514 nghìn học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng gần 11,6 triệu công trình nước sạch, công trình vệ sinh; xây dựng gần 139 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo ổn định cuộc sống, trên 38 nghìn căn nhà ở xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp…

Tín dụng chính sách xã hội: “Điểm sáng” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo
Các đại biểu thảo luận chỉ ra những khó khăn, bất cập trong việc triển khai tín dụng chính sách xã hội, nguồn lực để thực hiện, cơ cấu nguồn vốn...

Đưa hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội lên một tầm cao mới

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng cũng thẳng thắn nhìn nhận, việc triển khai tín dụng chính sách xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Nguồn lực để thực hiện tín dụng chính sách xã hội còn hạn chế so với nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Cơ cấu nguồn vốn tuy đã đa dạng hơn nhưng vẫn chưa thực sự hợp lý và bảo đảm bền vững. Nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương tại một số tỉnh còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo hiện nay vẫn còn bị phân tán, chưa tập trung triệt để về một đầu mối là Ngân hàng Chính sách xã hội.

“Sau gần 40 năm Đổi mới, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thay đổi, đời sống của nhân dân, trong đó có đối tượng chính sách đã được nâng lên, nhu cầu vay vốn của nhân dân đã cao hơn nhiều, đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng xã hội sát hợp hơn nữa với thực tiễn” - GS.TS Nguyễn Xuân Thắng nói.

Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng cho hay, nhiều quy định không còn phù hợp về mức cho vay, thời hạn cho vay của một số chương trình tín dụng chậm được điều chỉnh. Một số địa phương vẫn chưa thực sự sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, chưa coi đây là nhiệm vụ trọng tâm triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoạt động ủy thác đối với tổ chức chính trị - xã hội cấp dưới, nhất là công tác kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động Tổ tiết kiệm và vay vốn ở một số địa phương chưa thực sự quyết liệt, đồng bộ.

Phát biểu bế mạc Hội thảo, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội Nguyễn Thị Hồng cảm ơn và đánh giá cáo các ý kiến phát biểu, các bài tham luận tâm huyết, tinh thần khoa học và trách nhiệm cao của các đại biểu, nhà khoa học.

Ban tổ chức Hội thảo đã nhận được hơn 60 bài viết của các tác giả đã và đang công tác tại các Ban, Bộ, ngành Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, các tổ chức chính trị - xã hội, Thường trực các Tỉnh ủy, Thành ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước. Nội dung các tham luận đã bám sát, tập trung phân tích và làm nổi bật chủ đề Hội thảo trên các vấn đề chủ yếu:

Thứ nhất, làm rõ quá trình hiện thực hóa tầm nhìn của Đảng về xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để thực hiện những mục tiêu cao cả là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách trợ giúp người dân còn nhiều khó khăn, các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, trong đó, tín dụng chính sách xã hội trở thành một “trụ cột” quan trọng, một “điểm sáng” trong hệ thống chính sách giảm nghèo.

Thứ hai, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc những kết quả đạt được trong hơn 20 năm hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, đặc biệt từ khi có Chỉ thị số 40-CT/TW. Qua đó, tiếp tục khẳng định định hướng lớn, lâu dài, chủ trương nhất quán của Đảng trong việc phát triển kinh tế gắn với thực hiện mục tiêu giảm nghèo chăm lo đến đời sống của người nghèo, đối tượng chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội.

Thứ ba, các nhà khoa học, đại diện Lãnh đạo của các địa phương cũng đã thảo luận làm rõ mô hình tổ chức, bộ máy quản trị, điều hành của Ngân hàng Chính sách xã hội. Trên cơ sở thực trạng hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội những năm qua, Hội thảo đã tập trung phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho những đề xuất giải pháp nhằm đưa hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội lên một tầm cao mới, trợ giúp tốt hơn cho các đối tượng chính sách.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng thay mặt Ban tổ chức Hội thảo trân trọng tiếp thu tất cả ý kiến của các nhà khoa học, đại biểu để làm căn cứ khoa học tham mưu tổng kết, đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để Ngân hàng Chính sách xã hội phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo đủ năng lực thực hiện tín dụng chính sách xã hội hiệu quả hơn.

Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú:

Hiệu quả tín dụng chính sách xã hội khác với ngân hàng thương mại không phải vì lợi nhuận mà là lợi ích xã hội với việc thực hiện giảm nghèo; thu hẹp khoảng cách nông thôn thành thị, đảm bảo tối thiểu quyền con nguời. Cao hơn là hiệu quả chính trị, khẳng định đuờng lối đúng đắn của Đảng và nhà nuớc, niềm tin nguời nghèo yếu thế khó khăn vào đường lối chính sách của Đảng và cả niềm tin nguời không nghèo về chế độ tươi đẹp của chúng ta.

Hoàng Lan

Theo: Báo Công Thương