Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2020 đến nay, nền kinh tế có nhiều biến động, tác động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng.
Trước bối cảnh đó, ngành Ngân hàng đã điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, đảm bảo an toàn hệ thống, cơ cấu lại các TCTD yếu kém và đặc biệt giảm đáng kể tỷ lệ nợ xấu toàn ngành, tỷ nợ xấu nội bảng giảm từ mức khoảng 2,6% vào năm 2017 xuống dưới 2% vào thời điểm cuối năm 2022.
Chia sẻ tại Hội thảo "Vấn đề xử lý nợ xấu trong Dự thảo Luật các TCTD (sửa đổi)" do Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức ngày 17/5, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng khẳng định: Đạt được kết quả trên phần lớn là do cơ chế chính sách về xử lý nợ xấu đã được hoàn thiện hơn, nhiều văn bản liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo, xử lý nợ được các cơ quan có thẩm quyền ban hành và hướng dẫn triển khai, đặc biệt là sự ra đời Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) của Quốc hội về thí điểm cơ chế xử lý nợ xấu của các TCTD có hiệu lực từ ngày 15/8/2017.
Bên cạnh đó, các TCTD tích cực xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu mới phát sinh và nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro…. Theo đó, chất lượng tín dụng đã từng bước được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD được kiểm soát, góp phần xử lý hiệu quả nợ xấu, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Đến cuối tháng 2/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 2,91% (tăng so với mức 2,6% vào cuối năm 2016; mức 1,49% vào cuối năm 2021 và mức 2,0% vào cuối năm 2022).
Lũy kế từ khi Nghị quyết có hiệu lực (ngày 15/8/2017) đến cuối tháng 1/2023, toàn hệ thống đã xử lý được 416 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42. Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết 42 đạt 211,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 50,9% tổng nợ xấu đã xử lý). Ngoài ra, xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán là 122,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 29,3% tổng nợ xấu đã xử lý). Xử lý các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 82,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 19,7%).
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đang được kiểm soát song trong bối cảnh kinh tế vĩ mô biến đông, các ngân hàng cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, mặt bằng lãi suất ngân hàng đã hạ nhiệt đáng kể sau quyết định hạ lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, tuy nhiên mức lãi suất huy động và cho vay hiện nay vẫn ở mức cao do thực tế tốc độ huy động vốn vẫn tăng trưởng thấp hơn tín dụng.
Bên cạnh đó, các khoản huy động vốn của ngân hàng chủ yếu là kỳ hạn ngắn trong khi các khoản cho vay dài hạn lại chưa thu hồi được trong bối cảnh khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm, các khoản huy động cũ lãi suất cao chưa đáo hạn,… nên các ngân hàng vẫn chưa có cơ sở để giảm mạnh lãi suất cho vay.
Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên khả năng hấp thụ vốn thấp, dẫn đến tín dụng tăng trưởng chậm lại. Đến ngày 20/4/2023, tăng trưởng tín dụng đạt trên 12,23 triệu tỷ đồng, tăng 2,57% so với cuối năm 2022, nhưng thấp hơn nhiều so với năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,46%). Chất lượng tài sản suy giảm, vấn đề kiểm soát nợ xấu của ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn
Hơn nữa, mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3%. Tuy nhiên, có một số khoản chưa phải là nợ xấu theo quy định của pháp luật hiện hành nhưng có nguy cơ chuyển nợ xấu (như các khoản nợ được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ, các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái...).
“Thực tế, trong hệ thống, nhiều ngân hàng công bố kết quả kinh doanh năm 2022 và quý I/2023 cho thấy nợ xấu gia tăng mạnh so với trước, nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng trên 2%, một số ngân hàng nợ xấu tăng đột biến 4%. Chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại có sự phân hóa mạnh”, TS. Nguyễn Quốc Hùng cho hay.
Ngoài ra, với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng chiếm xấp xỉ 40% tổng dư nợ của ngành, sự suy yếu của thị trường bất động sản không chỉ ảnh hưởng tăng trưởng tín dụng, mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu
Bên cạnh những thách thức đến từ điều kiện kinh tế, TS. Nguyễn Quốc Hùng nêu rõ, khách hàng có nợ quá hạn đa phần có thái độ bất hợp tác, khó thương lượng. Các ngân hàng buộc phải xử lý nợ thông qua biện pháp tố tụng, dẫn đến việc thu hồi nợ mất nhiều thời gian để xử lý. Trong quá trình thi hành án, các đương sự cố tình tạo ra tranh chấp bên thứ ba, sau đó khởi kiện ra Tòa án nhằm kéo dài việc kê biên, xử lý tài sản bảo đảm.
Mặt khác, một số cơ quan thi hành án chậm trễ, kéo dài chưa tiến hành cưỡng chế kê biên tài sản, bán đấu giá gây thiệt hại cho TCTD; nhiều chấp hành viên khi thuê công ty định giá tài sản để định giá tài sản để đưa ra bán đấu giá có giá định thấp hơn so với giá thị trường dẫn đến TCTD bị thiệt hại trong việc xử lý tài sản, thu hồi nợ….
Khách hàng có nợ quá hạn đa phần có thái độ bất hợp tác, khó thương lượng. Các ngân hàng buộc phải xử lý nợ thông qua biện pháp tố tụng, dẫn đến việc thu hồi nợ mất nhiều thời gian để xử lý.
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng
Cũng theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, một số khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là các dự án đang dở dang có giá trị lớn, chưa hoàn thiện pháp lý; việc thu giữ tài sản vẫn phụ thuộc vào thiện chí của bên vay (đặc biệt trong trường hợp khách hàng không hợp tác, cố ý chây ỳ trong việc bàn giao tài sản).
Công tác phối hợp với chính quyền các cấp và các cơ quan liên quan còn nhiều khó khăn, cụ thể: trong việc tiếp cận thông tin về tình trạng tài sản bảo đảm; đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở, thi hành án, việc giới hạn phạm vi lựa chọn tổ chức thẩm định giá...
Ngoài ra, việc mua bán nợ xấu của TCTD cho các tổ chức, cá nhân chưa phát sinh nhiều do bên mua nợ còn e ngại thủ tục xử lý nợ trên thực tế gặp nhiều khó khăn.
Thời gian qua, Chính phủ và NHNN đã nỗ lực hoàn thiện và tạo tiền đề cho các khung pháp lý về xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tài sản hệ thống ngân hàng
Tuy nhiên, TS. Nguyễn Quốc Hùng cho biết, việc triển khai trên thực tế còn rất nhiều vướng mắc. Các khó khăn, vướng mắc Nghị quyết 42 chủ yếu do bất cập, xung đột pháp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng với các văn bản quy phạm pháp luật khác và xuất phát từ quá trình thực thi, từ các quy định tại các luật hiện hành, một số quy định tại Nghị quyết 42 không áp dụng được trên thực tế, cần phải có chính sách, cơ chế đặc thù của nhà nước mới xử lý được. Bên cạnh đó là vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp luật khác...
Sau khi chỉ rõ những khó khăn, vướng mắc, đại diện của Hiệp hội Ngân hàng đề nghị Quốc hội trước khi thông qua các dự thảo Luật nên lắng nghe ý kiến từ các cử tri, bộ, ngành, các tổ chức chính trị xã hội ngành nghề, và chính các doanh nghiệp, rà soát các Luật liên quan để ban hành luật sửa đổi phù hợp với thực tiễn.
Về phía Tòa án nhân dân Tối cao, cần có văn bản hướng dẫn các Tòa án cấp dưới trong việc xử lý các vướng mắc tranh chấp liên quan đến việc tài sản bảo đảm tạo ra các tranh chấp giả tạo nhằm kéo dài việc xử lý tài sản bảo đảm của TCTD.
Đối với các trường hợp cố tình chây ì, lẩn trốn, không xuất hiện, không hợp tác với cơ quan chức năng nhằm mục đích để kéo dài thời gian xử lý nợ, trốn tránh nghĩa vụ, coi thường sự nghiêm minh của luật pháp, cần tạo thành án lệ về việc xét xử vắng mặt các đối tượng này, hoặc áp dụng các biện pháp rút gọn tại tòa để rút ngắn thời gian khởi kiện, nhanh chóng xử lý có kết quả thu hồi của khoản nợ.
TS. Nguyễn Quốc Hùng cũng kiến nghị, Tòa án Nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an sớm ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự.
“Nếu như xác định nợ xấu là vấn đề riêng của ngành Ngân hàng thì xử lý rất khó. Còn nếu xác định nợ xấu là vấn đề xã hội, là vấn đề cần quan tâm, thì cần sự đồng thuận của các cơ quan, tổ chức để xử lý nghiêm và thu hồi các khoản nợ”, TS. Nguyễn Quốc Hùng nhận định.
Ngoài ra, Chính phủ cần cho phép các NHTM Nhà nước được tăng vốn điều lệ các năm tới thông qua hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu từ nguồn lợi nhuận để lại sau trích lập các quỹ giai đoạn 2022-2023 nhằm gia tăng năng lực tài chính, dự phòng rủi ro trong bối cảnh nợ xấu tăng cao thời gian tới.
NHNN cũng cần nghiên cứu kỹ Luật về ngân hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới để các quy định tại Luật Các TCTD (sửa đổi) phù hợp với đặc thù Việt Nam nhưng cũng phải tiệm cận và phù hợp thông lệ quốc tế.
Nếu như xác định nợ xấu là vấn đề riêng của ngành Ngân hàng thì xử lý rất khó. Còn nếu xác định nợ xấu là vấn đề xã hội, là vấn đề cần quan tâm, thì cần sự đồng thuận của các cơ quan, tổ chức để xử lý nghiêm và thu hồi các khoản nợ
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng
Đồng thời rà soát một số dự thảo Luật liên quan đến hoạt động ngân hàng đang sửa đổi hiện nay để tránh sự chồng chéo, không phù hợp với Luật các TCTD (sửa đổi).
TS. Nguyễn Quốc Hùng đề nghị lưu ý những nội dung dự thảo Luật Giao dịch điện tử để đưa vào Luật các TCTD nhằm thực hiện tốt chuyển đổi số, cho vay trên nền tảng công nghệ, thẩm định và quyết định cho vay trên dữ liệu lớn; đồng thời trên cơ sở thực tiễn vướng mắc Nghị quyết 42 bổ sung một số quy định về xử lý nợ xấu vào luật TCTD sửa đổi bổ sung.
“Đến nay, việc luật hóa các quy định của Nghị quyết 42 dưới hình thức ban hành một Luật về xử lý nợ xấu, hay đưa vào một số điều của Luật các TCTD sửa đổi, bổ sung mang tính cấp bách. Luật về xử lý nợ xấu sẽ kế thừa các quy định của Nghị quyết 42 còn phù hợp và sửa đổi, bổ sung các nội dung khác để phù hợp với thực tiễn hoạt động xử lý nợ xấu, khắc phục những khó khăn, bất cập khi thực hiện Nghị quyết 42, góp phần đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu của TCTD”, TS. Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.
Quỳnh Lê