Một trong những nội dung được đưa ra trao đổi tại hội thảo “Xử lý nợ xấu: Đâu là giải pháp hài hoà” do Báo Tiền Phong tổ chức sáng ngày 27/5.
Áp lực xử lý nợ xấu đối với ngân hàng là rất lớn
Khẳng định áp lực xử lý nợ xấu đối với ngân hàng là rất lớn, luật sư Lê Trung Phát - Giám đốc hãng luật Lê Trung Phát, đoàn luật sư TP.Hồ Chí Minh nhận định, bản thân ngân hàng cũng mong muốn xử lý nợ xấu để mang lợi nhuận. Tài sản thế chấp chỉ là nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn. Do vậy, pháp luật ngân hàng đã có quy định rất chặt chẽ về việc phân loại nợ xấu và xử lý nợ xấu.
Dưới góc nhìn của người làm nghề, luật sư Lê Trung Phát cho hay, việc xử lý tài sản nhằm đảm bảo cho việc thu hồi nợ, nhìn tưởng rất đơn giản nhưng có rất nhiều vấn đề đặt ra, bởi nó là vấn đề về luật pháp mà khi gặp phải thì không thể không thực hiện.
Theo Giám đốc Hãng luật Lê Trung Phát, thoạt đầu, nhìn các ngân hàng cho vay và nhận thế chấp bằng bất động sản, cứ ngỡ là đơn giản và không mấy rủi ro, nhưng thực tế cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro mà để lấy lại được quyền lợi chính đáng của mình. Chính các ngân hàng cũng phải tốn nhiều thời gian, công sức nếu gặp phải các khách hàng không thiện chí khi bản thân họ không trả được nợ, bàn giao tài sản.
"Nhiều trường hợp, ngân hàng cầm được bản án, quyết định thi hành án, chờ việc bán đấu giá tài sản để thu hồi tiền nữa là xong nhưng đến lúc đó vẫn chưa xong vì lại phát sinh các tranh chấp. Đơn cử, trường hợp người dân thế chấp căn nhà cho ngân hàng nhưng sau đó cho người khác thuê ở hoặc trồng cây hoa màu thì phát sinh quyền lợi của bên thứ 3", luật sư Lê Trung Phát dẫn chứng.
Phân tích về tài sản bảo đảm, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn - Trường Chính sách công và quản lý Fulbright cho rằng, tài sản bảo đảm giúp ngân hàng yên tâm cấp vốn, đồng thời kiểm soát rủi ro, tuy nhiên, giá trị thực sự của tài sản bảo đảm chỉ phát huy khi có thể được thu giữ và xử lý nhanh chóng, minh bạch, hợp pháp nếu người vay mất khả năng trả nợ. Quyền thu hồi tài sản trở thành công cụ pháp lý cốt lõi, đảm bảo dòng vốn lưu thông và thị trường tín dụng vận hành ổn định.
Dẫn chứng về việc xử lý tài sản bảo đảm ở các quốc gia khác, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn cho biết, tại các quốc gia như Mỹ, Anh, Singapore thực hiện xử lý tài sản bảo đảm theo hệ thống Thông luật (Common Law), trong khi Việt Nam đang xử lý theo Dân luật (Civil Law).
Theo đó, trong hệ thống Thông luật, quyền thỏa thuận trong hợp đồng được đề cao. Nếu hợp đồng thế chấp quy định rõ “quyền bán tài sản”, ngân hàng có thể tự thu giữ và bán tài sản mà không cần đưa ra tòa. Cơ chế này rút ngắn thời gian xử lý nợ, giảm chi phí pháp lý và nâng cao hiệu quả thu hồi nợ, trở thành hình mẫu trong quản lý rủi ro tín dụng.
Ngược lại, hệ thống Dân luật thường yêu cầu việc xử lý tài sản bảo đảm phải thông qua tòa án hoặc cơ quan thi hành án, ngay cả khi hợp đồng có điều khoản rõ ràng về quyền xử lý. Cách tiếp cận này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người vay và bên thứ ba, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong toàn bộ quá trình. Tuy nhiên, chính quy trình tư pháp phức tạp lại khiến thời gian xử lý kéo dài.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn nhận định, phần nợ xấu hay còn gọi là “cục máu đông” này kéo dài từ năm này qua tháng khác, gây thiệt hại cho ngân hàng, cho người thế chấp. Tài sản bị phong tỏa, bị kê biên, niêm phong, rõ ràng không làm gì được, không sinh lời được… gây lãng phí.
Trong giai đoạn 2017-2023, Nghị quyết 42/2017/QH14 từng mở ra một cơ chế đặc thù, giúp tổ chức tín dụng xử lý tài sản nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, khi nghị quyết hết hiệu lực vào cuối năm 2023, hệ thống pháp lý lập tức rơi vào trạng thái hụt cơ chế xử lý hữu hiệu.
Cần cơ chế đặc thù xử lý nợ xấu quyết liệt, đồng bộ
Theo ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh, xử lý nợ xấu không chỉ là thu hồi nợ mà còn là cơ hội để phục hồi thị trường bất động sản. Chính phủ cần xem xét ban hành cơ chế đặc thù nhằm xử lý nợ xấu một cách quyết liệt, đồng bộ; đồng thời, cần cách tiếp cận mới: Thu hồi được nợ, khôi phục được dự án, cứu được doanh nghiệp và giữ được việc làm cho người lao động.
Ông Lê Hoàng Châu đề xuất thành lập tổ công tác liên ngành cấp trung ương để rà soát, phân loại các dự án bất động sản đang bị ngưng trệ, từ đó có chính sách xử lý phù hợp từng nhóm nợ xấu, không dùng một cơ chế cứng nhắc cho tất cả.
Mặt khác, cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp có dự án khả thi được tiếp cận nguồn vốn tín dụng với điều kiện linh hoạt hơn, qua đó phục hồi năng lực tài chính và hoàn thiện dự án, tạo dòng tiền thực để trả nợ.
Luật sư Lê Trung Phát thì cho rằng, để xử lý nợ xấu, cần đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ hài hòa cho các bên liên quan. Cần xây dựng quyền lợi bên nhận thế chấp tài sản và sự minh bạch hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng tín dụng. Không xây dựng hợp đồng như xây dựng bộ luật mà phải phân loại rõ quyền, nghĩa vụ của các bên.
Đề xuất cơ chế bảo đảm minh bạch, công bằng và hạn chế tranh chấp, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng, điều kiện tiên quyết là hợp đồng thế chấp phải có thỏa thuận rõ ràng về quyền xử lý tài sản mà không cần thông qua tòa án - cơ chế được gọi là “power of sale”. Thỏa thuận này không thể mơ hồ hay chỉ mang tính hình thức, mà phải quy định cụ thể trình tự thông báo, phương thức định giá, thời gian chờ xử lý cũng như các quyền còn lại của người vay sau khi tài sản bị bán.
Cùng với đó, cần luật hóa những thành công từ Nghị quyết 42 để đảm bảo quyền thu giữ tài sản hợp pháp của ngân hàng và đảm bảo quyền tài sản của bên đi vay. Cuối cùng, phải cân bằng quan điểm khi hoàn thiện Luật các tổ chức tín dụng, cân bằng giữa quyền thu giữ tài sản của ngân hàng và quyền tài sản của bên đi vay. Khả năng cân bằng này phải dựa trên các nguyên lý gồm: tăng độ bao phủ rủi ro cho ngân hàng, giảm chi phí sử dụng vốn cho người đi vay, cải thiện được khả năng tiếp cận tín dụng cho nền kinh tế.
Minh Nhật