Nhìn lại 15 năm gia nhập WTO |
Sau 16 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (07/11/2006- 07/11/2022), Việt Nam đã có những bước tiến dài trên con đường hội nhập kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam liên tục có sự bứt phá và đạt được nhiều thành tựu ấn tượng. Báo cáo Rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO đã ghi nhận: trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019.
Các nhà đàm phán tại buổi gặp mặt các nhà đàm phán Chính phủ sau 16 năm Việt Nam gia nhập WTO, ngày 6/1/2023 |
Theo số liệu từ Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) thì đến năm 2021, Việt Nam đã nằm trong danh sách 20 quốc gia xuất khẩu hàng hóa cao nhất thế giới. Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), trong 10 năm, chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng 68/131 vào năm 2007 đã lên 55/137 vào năm 2017 - chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên.
Năm 2019, thứ hạng GCI của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, xếp thứ 67/141 nền kinh tế. Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, với mức giảm trung bình là trên 1,4% mỗi năm.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cũng liên tục có sự cải thiện theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến đã tăng từ 18,6% kim ngạch xuất khẩu năm 2006 lên mức 89% năm 2022. Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD cũng tăng nhanh từ 9 mặt hàng năm 2006 lên 25 mặt hàng năm 2016 và 32 mặt hàng vào năm 2022 (trong đó 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD). Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI), Việt Nam hiện đã trở thành một trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất trên thế giới.
Sau khi gia nhập WTO, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 của Việt Nam tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như trên là một thành công rất lớn.
Với việc gia nhập WTO, lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng nổi bật, đặc trưng cho nỗ lực đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế và mang đến sự thay đổi đột phá đối với nền kinh tế. Tổng số dự án cấp phép năm 2008 là 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007.
Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm 2008 đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5 triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007.
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%.
Trong tổng xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 của các loại hàng hoá đều tăng so với năm 2007. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%.
Cùng với việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam tiếp tục thu hút đều một lượng lớn FDI qua các năm. Năm 2020, Việt Nam lọt vào top 20 quốc gia thu hút nhiều FDI nhất trên thế giới, đứng vị trí thứ 19 - tăng 5 bậc so với năm 2019 (theo UNCTAD, 2021). Tính lũy kế đến tháng 10/2022, Việt Nam đã thu hút được hơn 35.895 dự án FDI từ hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đăng ký 435,2 tỷ USD.
Nhiều dự án FDI có tổng vốn đăng ký lớn, tập trung vào các ngành có tính cạnh tranh cao như điện thoại, điện tử… Những kết quả trên đạt được một phần lớn nhờ việc mạnh dạn mở cửa nền kinh tế của Việt Nam, với việc gia nhập WTO và tham gia các FTA. Cho tới thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ký kết và thực thi 15 FTA (trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP) và đang đàm phán 02 FTA khác.
WTO và các FTA này đã và đang mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam để tăng cường thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, và giúp các doanh nghiệp của chúng ta tham gia sâu hơn chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu.a
Từ năm 2006 đến nay là một chặng đường hội nhập dài của Việt Nam cùng nhiều thành tựu trong lĩnh vực thương mại. Chính sách gắn tăng trưởng xuất khẩu với kiểm soát hiệu quả hoạt động nhập khẩu đã giúp cán cân thương mại chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu.
Nếu như năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ ở mức 84,7 tỷ USD (trong đó, xuất khẩu là 39,8 tỷ USD và nhập khẩu là 44,9 tỷ USD), thì đến năm 2022 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng 865%, lên 732,5 tỷ USD (xuất khẩu đạt 371,85 tỷ USD và nhập khẩu đạt 360,65 tỷ USD). Đặc biệt, nhìn chung từ năm 2016 đến nay, cán cân thương mại luôn đạt thặng dư với giá trị tăng dần qua các năm - từ 1,77 tỷ USD năm 2016 lên 11,2 tỷ USD năm 2022, trong đó đạt kỷ lục năm 2020 với 19 tỷ USD.
Năm 2022, mặc dù vẫn còn chịu ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19 cũng như xung đột địa chính trị trên toàn thế giới, Việt Nam vẫn đạt thặng dư thương mại 10,68 tỷ USD. Như vậy, sau 16 năm gia nhập WTO và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã khẳng định được vị thế của mình là một trong những quốc gia có trao đổi thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới. Những thành tựu đó đã giúp Việt Nam liên tục tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, thu nhập cho người lao động, từ đó gia tăng mức sống cho người dân nói chung.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà khởi điểm là tư cách thành viên WTO đầy đủ năm 2006, đã giúp kinh tế Việt Nam đạt được tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước ổn định trong nhiều năm liên tục. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2006 - 2020 đạt mức bình quân 6,57%.
Đây là con số khá cao bởi đây là giai đoạn nền kinh tế thế giới có nhiều biến động như suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2012 và khủng hoảng kinh tế do dịch bệnh Covid năm 2019 - 2021. Năng suất lao động của Việt Nam cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). So với nước có mức năng suất dẫn đầu châu Á là Singapore, khoảng cách về năng suất giữa Singapore và Việt Nam đã rút ngắn rất ấn tượng, từ mức 21 lần vào năm 1990 thì khoảng cách hiện tại là 12 lần.
Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân tặng quà cho ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương, Trưởng đoàn Đàm phán Chính phủ gia nhập WTO |
Bên cạnh những thuận lợi mà WTO và các FTA đã mang đến thì cũng không thể không đề cập đến những thách thức mà nền kinh tế Việt Nam đã, đang và sắp phải đối mặt. Việc hạ thuế quan và mở cửa thị trường trong nước khiến cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) gay gắt hơn.
Hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam được hưởng mức thuế quan thấp hơn so với trước đây, và được bình đẳng với hàng hoá tương tự của Việt Nam về các loại phí, lệ phí, luật lệ… nên có sức cạnh tranh mạnh hơn với hàng hoá nội địa. Dịch vụ cung cấp qua biên giới hay trực tiếp tại Việt Nam của các cá nhân/tổ chức dịch vụ nước ngoài cũng sẽ thuận lợi hơn khiến cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ gia tăng; Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ với vốn thấp, cơ cấu quản trị còn lỏng lẻo đứng trước thách thức lớn khi phải tổ chức lại kinh doanh để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài lớn, dày dạn kinh nghiệm trong quản trị và kinh doanh.
Việc bãi bỏ và/hoặc cắt giảm các hình thức trợ cấp khiến cho các ngành sản xuất vốn nhận được trợ cấp từ Nhà nước dưới các hình thức khác nhau (trực tiếp hoặc gián tiếp) gặp khó khăn. Đồng thời là nền kinh tế có độ mở cao, Việt Nam không thể tránh khỏi ảnh hưởng của những biến động từ bên ngoài.
Kinh tế thế giới năm 2023 được hầu hết các Tổ chức quốc tế dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại, gia tăng khả năng suy thoái trong ngắn hạn; tình trạng lạm phát cao tiếp tục kéo dài ở nhiều quốc gia; cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn, xung đột Nga-Ukraine và việc điều chỉnh chính sách của các nước lớn tiềm ẩn rủi ro đến ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực và các vấn đề địa chính trị khu vực, toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… có chiều hướng diễn biến phức tạp, trái quy luật, khó dự báo hơn.
Đối với Việt Nam, năm 2023 là năm bản lề thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025. Đây cũng là năm Việt Nam khẳng định vị thế mới khi nước ta sẽ đạt ngưỡng 100 triệu dân và quy mô GDP cán mốc 10 triệu tỷ đồng.Trước khó khăn, thách thức của kinh tế toàn cầu, Việt Nam cần khai thác tối đa nội lực, huy động và thu hút làn sóng đầu tư, tận dụng mọi cơ hội tham gia sâu, rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu để tiếp tục khẳng định vị thế và uy tín của đất nước trên tầm cao mới.
Trong những năm qua, Văn phòng BCĐLNKT, mà tiền thân là Văn phòng UBQG về HTKTQT, kiêm nhiệm chức năng Văn phòng đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế thương mại quốc tế, luôn không ngừng nỗ lực để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, Văn phòng BCĐLNKT xác định đặt trọng tâm hàng đầu vào việc điều phối liên ngành triển khai, thực thi và tận dụng hiệu quả các cơ hội từ các FTA, nhất là các hiệp định thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA)…
Ký kết gia nhập WTO |
Đồng thời, giúp lãnh đạo BCĐLNKT và lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan chủ động xây dựng các phương án phù hợp, thúc đẩy các FTA đang đàm phán, tiếp tục nghiên cứu, đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường và đối tác trong bối cảnh đại dịch Covid-19 còn chưa kết thúc; tiếp tục đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai các nghị quyết, chương trình hành động của Chính phủ về hội nhập kinh tế quốc tế; rà soát, đánh giá các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế để rút kinh nghiệm cho giai đoạn mới; và đẩy mạnh việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi các FTA.
Các thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm qua gắn liền với vai trò quan trọng của Đoàn Đàm phán Chính phủ về kinh tế và thương mại quốc tế, cũng như sự đóng góp to lớn của các cán bộ thành viên Đoàn đàm phán thuộc nhiều thế hệ. Trong đó, có thể thấy rằng các cán bộ đã tham gia quá trình đàm phán WTO là thế hệ các nhà đàm phán lần đầu tiên đối mặt với các phiên đàm phán khó khăn nhất, dài nhất với các thành viên WTO, trải qua tất cả những gì gian nan, bỡ ngỡ, khó khăn và vất vả nhất của những ngày đầu Việt Nam hội nhập và tham gia vào tổ chức kinh tế thương mại lớn nhất hành tinh./.
Trịnh Minh Anh - Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế