Hội thảo được tổ chức nhằm trình bày kết quả rà soát, đánh giá tình hình triển khai Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69) thời gian qua và tham vấn ý kiến các chuyên gia, các cơ quan đại diện chủ sở hữu và một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn về định hướng sửa đổi, bổ sung Luật cho giai đoạn tới.
Theo ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính), nhìn chung các cơ chế, chính sách đã tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp. Cơ chế, chính sách đã đảm bảo tôn trọng và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp cùng việc tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước và tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Luật số 69/2014/QH13 và các văn bản hướng dẫn cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế bất cập như: việc xác định vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; thẩm quyền quyết định dự án đầu tư, xây dựng, mua bán tài sản cố định; thẩm quyền quyết định đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp.
Cùng với đó là quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp: phương thức chuyển nhượng vốn đầu tư, phân phối lợi nhuận sau thuế; nguyên tắc phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nhà nước(DNNN); bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp; các phương thức chuyển giao, cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Bất cập còn nằm ở việc quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn; quyền hạn, trách nhiệm, phương thức quản lý người đại diện và nhóm người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cơ quan đại diện chủ sở hữu và công tác giám sát; quản lý của DNNN đối với công ty con do DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ…
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp trở thành cổ đông, thành viên, và tài sản có được là số cổ phần, phần góp vốn tương ứng. Tuy nhiên, khái niệm về vốn nhà nước tại Luật 69 không còn phù hợp, có sự lẫn lộn, sai lệch về các loại vốn, tài sản, sở hữu tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản của DN. TS.Nguyễn Đình Cung cho rằng quy định hiện hành làm lẫn lộn và không phân biệt được về mặt pháp lý tài sản của doanh nghiệp và tài sản nhà nước. Cần loại bỏ các khái niệm kiểu này, chúng là di sản của kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Một số ý kiến chuyên gia tại hội thảo đều nhận định Luật số 69 có nhiều kết quả tích cực, nhưng bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung. Theo đó, cần phân định, làm rõ khái niệm vốn nhà nước theo quy trình của dòng vốn. Sau khi đầu tư vào doanh nghiệp, vốn nhà nước trở thành vốn của doanh nghiệp, do doanh nghiệp quản lý, sử dụng và định đoạt và nhà nước trở thành chủ sở hữu của phần vốn góp, cổ phần tương ứng tại doanh nghiệp.
Các cơ quan đại diện chủ sở hữu là chủ sở hữu phần vốn góp, cổ phần tại doanh nghiệp và có quyền, nghĩa vụ tương tự các nhà đầu tư, các cổ đông của doanh nghiệp. Do vậy, các cơ quan đại diện chủ sở hữu không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi hoạt động của doanh nghiệp do ban điều hành thực hiện; tách chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nước với quản lý điều hành doanh nghiệp.
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư vốn nhà nước cũng cần thay đổi theo các nguyên tắc thị trường, phải đánh giá dựa trên giá trị gia tăng của vốn đầu tư và cổ tức, lợi nhuận được chia hàng năm - hiệu quả đầu tư vốn của cổ đông nhà nước.
Đặc biệt, cần đẩy mạnh đổi mới, quản trị tại các DNNN theo hướng tăng cường công khai, minh bạch và tăng trách nhiệm giải trình của người đứng đầu; áp dụng quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế; tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước, thúc đẩy vai trò giám sát của các tổ chức, đoàn thể tại doanh nghiệp.
Bùi Trang
Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ