Đề xuất cơ chế đặc thù dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam

25/09/2024 - 23:42
(Bankviet.com) Sáng 25/9, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã nghe báo cáo tình hình triển khai dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Đề xuất làm đường sắt tốc độ cao Bắc- Nam vận tốc 350km/h, chuyên chở khách Thủ tướng chủ trì cuộc họp về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam Đường sắt Bắc - Nam tốc độ cao: Tầm nhìn mới cho tương lai phát triển

Đường sắt qua 20 tỉnh, thành, với tốc độ 350 km/h

Theo báo cáo của Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Danh Huy, mục tiêu đầu tư dự án nhằm xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao đáp ứng nhu cầu vận tải, góp phần tái cơ cấu thị phần vận tải trên hành lang Bắc - Nam một cách tối ưu, bền vững, tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.

Về mục tiêu cụ thể, phấn đấu phê duyệt chủ trương đầu tư trước năm 2025; giải phóng mặt bằng, khởi công trước năm 2030; hoàn thành toàn tuyến trước năm 2045.

Đề xuất cơ chế đặc thù cho dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam
Các đại biểu cho rằng việc đầu tư một dự án lớn như đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam cần "thắt lưng, buộc bụng" để tập trung đầu tư, tạo đòn bẩy cho phát triển. (Ảnh: VGP/Minh Khôi)

Về phạm vi đầu tư, điểm đầu tại thành phố Hà Nội: Tổ hợp ga Ngọc Hồi (đầu mối vận chuyển hành khách và hàng hóa phía Nam của khu đầu mối đường sắt Hà Nội). Điểm cuối tại thành phố Hồ Chí Minh: Ga Thủ Thiêm (đầu mối vận chuyển hành khách phía Đông của khu đầu mối đường sắt thành phố Hồ Chí Minh).

Dự án đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh.

Để tối ưu chi phí vận tải, phát huy ưu thế của từng phương thức, kinh nghiệm quốc tế, năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng hiện tại, kết quả dự báo nhu cầu vận tải, công năng của tuyến đường sắt trên trục Bắc - Nam, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đề xuất: Xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; chiều dài khoảng 1.541km với 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa; đường sắt tốc độ cao vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết; đường sắt Bắc - Nam hiện hữu vận chuyển hàng hóa và khách du lịch chặng ngắn.

Tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam dự kiến đầu tư với chiều dài 60% là cầu, 10% là hầm và 30% là nền đất.

Xây dựng tuyến đường sắt “thẳng nhất có thể”

Kết luận cuộc làm việc, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải tiếp tục tiếp thu, quán triệt chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cũng như các ý kiến đóng góp của bộ, ngành, chuyên gia và nhân dân; tiếp tục cập nhật, hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trình Quốc hội, tập trung vào những vấn đề có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Đề xuất cơ chế đặc thù cho dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Lấy phát triển đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, đường sắt Việt Nam nói chung tạo cú hích cho các ngành cơ khí, chế tạo, tự động hóa… (Ảnh: VGP/Minh Khôi)

Cụ thể, ngoài phạm vi đầu tư từ điểm đầu dự án đến điểm cuối, Bộ Giao thông Vận tải cần xem xét, nghiên cứu để kéo dài kết nối tuyến đường sắt tốc độ cao từ Móng Cái đến Cà Mau.

Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải tập trung phân tích ưu điểm, lợi ích của việc đầu tư toàn tuyến sẽ kết nối đồng bộ với các tuyến giao thông, vận tải khác, so với đầu tư trước một số đoạn tuyến; hiệu quả của đường sắt tốc độ cao chuyên vận chuyển hành khách hoặc kết hợp vận tải hàng hóa khi cần thiết, cần được xem xét chung đối với cả nền kinh tế, thay vì giới hạn trong ngành đường sắt.

Bên cạnh đó, báo cáo tiền khả thi cần thể hiện được quan điểm đầu tư xây dựng tuyến đường sắt có tốc độ thiết kế 350 km/giờ “thẳng nhất có thể," “gặp núi qua núi, gặp sông bắc cầu."

Về hình thức triển khai đầu tư, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải chỉ rõ ưu điểm, nhược điểm trong trường hợp coi toàn tuyến là một dự án hoặc có nhiều dự án thành phần; đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù về phân kỳ đầu tư, phân bổ nguồn vốn Trung ương, địa phương một lần hay theo giai đoạn 5 năm/lần, sử dụng trái phiếu, ODA và các nguồn hợp pháp khác, tận dụng dư địa mức trần nợ công...

Ngoài ra, Bộ Giao thông Vận tải cần kiến nghị giải pháp tăng cường phân cấp, phân quyền, giao trách nhiệm cho địa phương về chuẩn bị mặt bằng, xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật, nhà ga…

Còn Trung ương thống nhất quản lý quy chuẩn, tiêu chuẩn từ thiết kế, hạ tầng, phương tiện, hệ thống thông tin, điều hành…; đồng thời “phân công nhiệm vụ” cho doanh nghiệp tư nhân để huy động nguồn lực bên ngoài, từ quỹ đất hai bên tuyến đường sắt để giảm bớt chi phí của Nhà nước.

Các cơ chế, chính sách đặc thù đã áp dụng cho đường sắt đô thị ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh cần được xem xét áp dụng cho các địa phương có tuyến đường sắt đi qua," Phó Thủ tướng nêu rõ và nhấn mạnh “trong dự án phải có cơ chế cho địa phương, doanh nghiệp tư nhân."

Phó Thủ tướng giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải, Cục Đường sắt Việt Nam, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, một số doanh nghiệp... xây dựng và triển khai lộ trình tiếp nhận, chuyển giao, làm chủ công nghệ và phát triển công nghiệp đường sắt từ sản xuất trang thiết bị, vận hành, quản trị; bảo đảm đồng bộ, thống nhất về công nghệ, quy chuẩn, tiêu chuẩn.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải triển khai "trước một bước" trong công tác đào tạo nguồn nhân lực, sẵn sàng tiếp nhận, làm chủ công nghệ, thiết kế kỹ thuật, chế tạo trang thiết bị, vận hành, quản lý... ngành đường sắt.

Trước đó, tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (tháng 9/2024), Trung ương thống nhất chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, xác định đây là nhiệm vụ chính trị và ưu tiên nguồn lực đầu tư thực hiện sớm.

Minh Quang

Theo: Báo Công Thương