Chính sách tiền tệ thắt chặt có thực sự là câu trả lời cho lạm phát không? Thủ tướng Chính phủ: Kinh tế vĩ mô ổn định trở lại, niềm tin của người dân, doanh nghiệp được củng cố Chính sách tiền tệ: Ứng phó linh hoạt, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô |
Hài hòa giữa điều hành lãi suất và điều hành tỉ giá
Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2023, ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, điều hành vĩ mô nói chung và điều hành chính sách tiền tệ năm 2022 đối mặt với khó khăn, thách thức chưa từng có từ biến động phức tạp, khó lường của kinh tế thế giới và trong nước.
Theo ông Quang, vào thời điểm cuối năm 2021, đầu năm 2022, hầu hết các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách tiền tệ trên thế giới đều sai lầm khi nhận định lạm phát toàn cầu chỉ có tính tạm thời. Tuy nhiên, thực tế lại ngược lại, thế giới đã đối mặt với lạm phát cao nhất 40 năm trở lại đây, buộc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và nhiều Ngân hàng Trung ương trên thế giới phải nhanh chóng chuyển hướng chính sách tiền tệ. Từ nới lỏng không giới hạn sang thắt chặt và tăng lãi suất với tốc độ nhanh, mạnh, khiến mặt bằng lãi suất thế giới tăng cao. Thậm trí Fed đã tăng 4 lần lãi suất với mức 0,75%/lần, tăng gấp 3 lần mức thông thường (thông thường Fed điều chỉnh 0,25%/lần tăng hoặc giảm lãi suất).
Ông Phạm Chí Quang, chia sẻ tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2023 |
Vì vậy, mặt bằng lãi suất toàn cầu bị đẩy lên rất cao, làm cho đồng USD tăng lên mức cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Cuối tháng 9, chỉ số đô la (DXY) đã lên mức 115, tức là tăng 21% so với đầu năm 2022, tạo áp lực rất lớn lên việc điều hành chính sách tiền tệ không chỉ ở Việt Nam mà ở các nước đang phát triển và những nước mới nổi.
Trong bối cảnh đó, đồng USD trở thành “hầm trú ẩn” cho các nhà đầu tư, dòng tiền chảy ra khỏi các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển. Dự trữ ngoại hối của các nước sụt giảm gần 10.000 tỉ USD, giảm gần 9% tổng dự trữ ngoại hối của các nước trước xu hướng dòng tiền đổi chiều.
Trong nước, kinh tế phục hồi nhưng chưa bền vững; thị trường chứng khoán, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp đều gặp khó khăn đã tạo áp lực rất lớn đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ.
“Với bối cảnh đó, chính sách tiền tệ của Việt Nam rất khó khăn, đặc biệt khi độ mở của nền kinh tế đang rất lớn thì khả năng chống chọi với cú sốc khủng khiếp đó là cực kỳ căng thẳng. Bài toán khó nhất đối với Ngân hàng Nhà nước là tìm điểm cân bằng hài hoà giữa điều hành lãi suất và tỷ giá. Bởi lẽ, nếu hy sinh tỷ giá để tỷ giá tăng cao, đồng nội tệ mất giá nhiều thì sẽ giữ được lãi suất, giữ được dự trữ ngoại hối; nhưng ngược lại, nền kinh tế Việt Nam độ mở rất lớn, nếu để tỷ giá mất giá nhanh và quá lớn thì chúng ta sẽ nhập khẩu lạm phát, từ đó không kiểm soát được lạm phát, các cân đối vĩ mô sẽ không kiểm soát được và có thể rơi vào mất ổn định kinh tế vĩ mô” - ông Quang nhận định.
Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho rằng, “nhúng” hệ điều hành chính sách tiền tệ vào bối cảnh kinh tế vĩ mô nói chung sẽ cho thấy được bức tranh chung mà ngành Ngân hàng phải đối mặt với những thách thức thời gian qua cũng như trong năm 2023.
Thứ nhất, làm thế nào để điều hành tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn phải đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng khi một số chỉ tiêu tỷ lệ tín dụng/huy động vốn và dư nợ tín dụng/GDP đã ở ngưỡng cảnh báo.
Thứ hai, làm thế nào ổn định được thị trường ngoại hối khi Việt Nam có độ mở cửa lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng USD tăng giá mạnh, Việt Nam đang trong giai đoạn giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ của Hoa Kỳ.
Thứ ba, làm thế nào ổn định được thị trường tiền tệ và thanh khoản hệ thống trước sự cố tháng 10 trên thị trường liên ngân hàng khi niềm tin thị trường suy giảm cùng với những biến cố trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản.
Đại diện Vụ Chính sách tiền tệ thông tin, xét tỷ lệ tín dụng/GDP, hiện nay Việt Nam đã đạt 124%, là mức cao nhất đối với các nước có mức thu nhập trung bình thấp theo thống kê của WB. Còn Moody’s thì cảnh báo tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam là mức cao nhất của các quốc gia xếp hạng tín nhiệm Ba và Baa.
“Tổng dư nợ tín dụng của Ngành ngân hàng tiến tới xấp xỉ 12 triệu tỷ đồng, đó là một con số rất lớn. Vì vậy, dư địa điều hành tín dụng trong bối cảnh nêu trên là rất hạn hẹp” - ông Quang cho hay.
Theo ông Quang, trong các nguồn lực để tạo ra nguồn vốn phục vụ cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thì tín dụng ngân hàng chỉ là một trong các nguồn vốn bên cạnh nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn từ thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, nguồn vốn đầu tư công, nguồn vốn FDI, nguồn vốn kiều hối... Để phát triển kinh tế - xã hội phải khơi thông và tạo được sự kết nối, phát triển đồng bộ của tất cả các nguồn vốn trên, mà trong đó tín dụng ngân hàng được xem là hạt nhân là mạch máu kết nối các nguồn vốn này.
Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng nên trong bối cảnh thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản biến động phức tạp, khó lường, có dấu hiệu thu hẹp, thì càng gây áp lực lớn lên cân đối vốn tín dụng ngân hàng và công tác điều hành chính sách tiền tệ của năm 2022 và cả trong năm 2023.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2023 |
Không thể chủ quan với lạm phát
Với đặc thù đó, định hướng điều hành trong năm 2023 của Ngân hàng Nhà nước, bên cạnh việc hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế thì mục tiêu quan trọng nhất, xuyên suốt là điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo giữ được sự ổn định của đồng tiền, kiểm soát được lạm phát.
Từ đó, mục tiêu quan trọng với nội bộ Ngành ngân hàng là duy trì được sự hoạt động lành mạnh, ổn định, bền vững của hệ thống tổ chức tín dụng. “Thời điểm 2008 khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra thì năng lực quản trị, chất lượng tài sản của bảng cân đối của hệ thống ngân hàng không tốt như giai đoạn hiện nay. Khi đó hệ thống ngân hàng phát sinh nhiều vấn đề, nợ xấu tăng cao vượt khả năng xử lý của các ngân hàng, một số ngân hàng rơi vào bờ vực phá sản và phải trải qua cuộc vật lộn tái cơ cấu hơn 10 năm cho đến nay. Giai đoạn hiện nay, hệ thống ngân hàng đối mặt với 2 cuộc khủng hoảng liên tiếp, Covid-19 vừa xong thì lại đến khủng hoảng lạm phát toàn cầu, theo đó hệ thống ngân hàng đã vững vàng hơn nhiều, chất lượng bảng cân đối, chuẩn mực quản trị được nâng cao, nợ xấu trong tầm kiểm soát” - ông Quang chia sẻ.
Theo đó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho biết, với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường trong và ngoài nước, với thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng như hiện nay thì tập trung trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2023 là: Một mặt tiếp tục hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng kinh tế, nhưng mặt khác không chủ quan với lạm phát trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu, mức lãi suất Fed còn tiếp tục neo cao và kéo dài đến hết năm 2023.
“Độ trễ của tác động lạm phát nhập khẩu đối với nước ta còn lớn, nên điều hành chính sách tiền tệ không thể chủ quan với các rủi ro này. Để đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế thì tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các giải pháp, công cụ chính sách tiền tệ khác sẽ được Ngân hàng Nhà nước điều hành đồng bộ, linh hoạt nhưng không xa rời mục tiêu kiểm soát lạm phát, trên tinh thần thấm nhuần quan điểm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”: Mục tiêu quan trọng nhất của điều hành chính sách tiền tệ năm 2023 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, còn cách thức, công cụ điều hành thì rất linh hoạt, tùy từng thời điểm thị trường để tùy cơ ứng biến đưa ra các giải pháp, chính sách, lộ trình phù hợp để vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không lơ là với rủi ro lạm phát” - ông Quang khẳng định.
Ngân Thương