Loại cây mọc dại ven đường lại được săn đón ở Trung Quốc , giúp nông dân "bỏ túi" tới 3 tỷ đồng mỗi năm
Từ loài cây mọc dại nay trở thành "cây trồng tỷ đô" khi người nông dân bán được giá cao tại Trung Quốc.
Quả bồ kết là hình ảnh quen thuộc gắn liền với nồi nước gội đầu thơm dịu của mẹ, của bà. Ít ai ngờ rằng, thứ quả dân dã này giờ đây lại được xếp vào danh mục "cây dược liệu quý" và trở thành cây kinh tế trọng điểm tại nhiều vùng trung du và miền núi phía Bắc.

Hiện tại, bồ kết khô ở Việt Nam có giá khoảng 170.000 đồng/kg. Nhưng ở Trung Quốc – thị trường xuất khẩu tiềm năng đang bán ra loại quả này có thể lên tới 600 nhân dân tệ/kg, tức hơn 2,1 triệu đồng, gấp 10 lần giá trong nước. Sự chênh lệch giá trị này đã khiến giới nông dân và doanh nghiệp trong nước bắt đầu nhìn bồ kết bằng con mắt hoàn toàn khác.
Từng là loài cây mọc hoang khắp nơi từ miền Trung ra Bắc, cây bồ kết nay đã được nhân giống, lai tạo và trồng thành vùng chuyên canh. “Bồ kết xứng đáng là cây rừng kinh tế mới” - ông Nguyễn Văn Biên – Giám đốc Trung tâm cây giống Tam Đảo (Vĩnh Phúc) khẳng định. Theo ông Biên, giống bồ kết ghép cho năng suất cao, ít sâu bệnh, ít phải chăm sóc lại thích nghi với nhiều loại đất, đặc biệt là đồi núi khô cằn.
Từ vài năm nay, nhiều hộ dân ở Bắc Ninh, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái… đã chuyển sang trồng bồ kết trên diện tích lớn, kết hợp với phát triển các sản phẩm thảo dược. Điển hình là anh Trần Đình Kỹ (xã Trung Chính, huyện Lương Tài, Bắc Ninh), người đang thu về 2–3 tỷ đồng/năm nhờ chế biến sản phẩm dầu gội từ ngải cứu và bồ kết.
Không chỉ bán quả khô, bồ kết còn được dùng để làm tinh dầu, xà phòng hữu cơ, thuốc xịt trị nấm da đầu, các sản phẩm thảo dược gia truyền. Saponin – chất tạo bọt tự nhiên có trong bồ kết được các hãng mỹ phẩm coi là nguyên liệu “xanh” thay thế hóa chất công nghiệp, đang rất được ưa chuộng ở thị trường quốc tế.

Nhiều nhà máy tại Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm quả bồ kết với điều kiện vùng trồng đạt đủ diện tích và chất lượng. “Chỉ cần trồng vài trăm cây trở lên là có thể thu lời ổn định mỗi năm. Nguồn cầu thì có sẵn, vấn đề là chúng ta có đủ quy mô và chuẩn hóa quy trình canh tác hay chưa”, ông Biên cho biết.
Không chỉ mang giá trị kinh tế, bồ kết còn là một trong những loại cây có công dụng bảo vệ môi trường sinh thái vượt trội. Cây có khả năng sinh trưởng nhanh, chịu hạn tốt, sống được trên đất bạc màu, cằn cỗi, thích hợp để phủ xanh đất trống đồi trọc, giữ đất chống xói mòn.
Ở nhiều vùng trung du và miền núi phía Bắc, bồ kết được chọn làm cây trồng xen trong rừng phòng hộ. Tán lá dày giúp giữ độ ẩm, bộ rễ ăn sâu giúp ổn định đất dốc và ngăn sạt lở. Trồng bồ kết không chỉ cải thiện đất mà còn làm tăng đa dạng sinh học khi kết hợp với các loài cây bản địa khác.
Trong Y học cổ truyền, bồ kết và gai bồ kết có vị cay, tính ấm, có tác dụng thông khiếu, trừ đờm, giảm ho, lợi tiểu, chữa viêm xoang, quai bị, mụn nhọt. Người ta còn dùng bồ kết đốt để xông nhà, làm sạch không khí, xua đuổi côn trùng.
Khi kết hợp với vỏ bưởi, hương nhu, sả, gừng..., bồ kết tạo nên hỗn hợp gội đầu truyền thống không hóa chất. Nhiều spa, thẩm mỹ viện và cửa hàng mỹ phẩm thiên nhiên cũng đang quay lại với các sản phẩm có nguồn gốc từ bồ kết, thậm chí xuất khẩu đi Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tại một số địa phương như Bắc Giang, Thanh Hóa, Lào Cai, các tổ hợp tác sản xuất sản phẩm dược liệu từ bồ kết đang hình thành, mở ra hướng đi mới cho kinh tế nông thôn. Không phải ngẫu nhiên mà bồ kết được gọi là “vàng xanh” hay “vàng đen” của núi rừng Việt Nam. Từ hình ảnh cây hoang dại mọc ven đường, bồ kết nay đang trở thành một trong những lựa chọn hàng đầu trong chuyển đổi cây trồng – đặc biệt tại các vùng đất khó.